Nấm sợi (Filamentous Fungi)

Vietsciences- Nguyễn Liên Hoa, Nguyễn Lân Dũng, Lê Hoàng Yến, Nguyễn Văn Bắc   023/06/2006
 

Chương trình Vi sinh vật học

Nấm sợi 1
Nấm sợi 2
Nấm sợi 3

NẤM SỢI (FILAMENTOUS FUNGI)

PHƯƠNG PHÁP LẤY MẪU :
I. Mẫu đất.
II. Lá và cành cây khô:
III. Lá tươi và vỏ cây:
IV. Phân.
V. Côn trùng.
VI. Nước ngọt và các vật liệu có trong nước ngọt.
VII. Nước mặn và các vật liệu có trong nước mặn.


PHƯƠNG PHÁP PHÂN LẬP:
1. Phương pháp dùng kim nhọn:
2. Phương pháp phân lập bào tử đơn độc:
3. Phương pháp dùng vi thao tác Skerman:
4. Phương pháp pha loãng:
5. Phương pháp pha loãng kết hợp với xử lý tia cực tím:
6. Phương pháp phân lập nấm đảm và nấm túi (Basidiomycetes và Ascomycetes)
7. Phương pháp rửa bề mặt:


PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LOẠI NẤM SỢI
I Yêu cầu:
II. Quy trình định loại một chủng nấm sợi:
III. Tiến hành định loại


KHOÁ PHÂN LOẠI ĐẾN LỚP
I. LỚP NẤM TIẾP HỢP (ZYGOMYCETES)
II. LỚP NẤM BẤT TOÀN (DEUTEROMYCETES)
1. Đặc điểm đặc trưng
2. Phân lớp của nấm bất toàn:
3. Những bộ phận sinh sản vô tính.
KHOÁ 1:
KHOÁ 2
I. Amerocodidium
II. Didymoconidium
III. Phragmoconidium
IV. Dictyoconidium
V. Scolecoconidium
VI. Helicoconidium
VII. Stauroconidium
VIII. Miscellaneous fungi
IX. Synnematous fungi:
 

PHƯƠNG PHÁP LẤY MẪU :

Chúng ta có thể phân lập vi nấm từ bất kỳ một cơ chất tự nhiên nào vì mọi cơ chất trong tự  nhiên đều có vi sinh vật bên trong. Tuy nhiên nếu chúng ta chọn lấy mẫu một cách ngẫu nhiên, không có mục đích thì rất mất thời gian và tiền bạc.

Những vật liệu khác nhau sẽ được coi như những cơ chất khác nhau để  phân lập nấm. Vật liệu chung nhất thường là: lá cây tươi, lá cây rụng, lá cây mục, phân động vật, côn trùng, nước ngọt, nước biển,....

Trước khi đi lấy mẫu phân lập nấm sợi chúng ta phải cân nhắc và suy nghĩ về những điều cần thiết sau:

1, Sẽ chọn loại vật liệu để phân lập cho loại nấm nào.

2, Dùng bản đồ kiểm tra lại vị trí lấy mẫu.

3, Sẽ dùng phương pháp phân lập nào cho mẫu đó.

4, Và cuối cùng là sẽ mang mẫu như thế nào về phòng thí nghiệm.

       Sau đó sẽ quyết định nơi lấy mẫu, chuẩn bị cho chuyến đi lấy mẫu đó, mang theo những dụng cụ cần thiết như: Túi ni lông, thìa cân, túi đựng mẫu  làm bằng  giấy, chai lọ, đèn gas xách tay, túi chứa, ... Khi tới nơi lấy mẫu chúng ta quyết định số lượng mẫu sẽ lấy.

       Một điều cũng rất quan trọng là phân lập nấm sau khi lấy mẫu càng sớm càng tốt.

I. Mẫu đất.

Mẫu đất là mẫu có hiệu quả nhất và chúng ta có thể phân lập nấm trên mẫu đất với số lượng lớn. Chúng ta có thể lấy mẫu đất ở nhiều nơi chẳng hạn như  ở ruộng lúa, nơi trồng cây lấy hạt hoặc cánh đồng trồng rau, dưới rừng tùng hay dưới rừng tán lá rộng, ở vùng núi cao, ven bừ suối,... Thông thường nấm phân lập được từ mẫu đất gọi là nấm đất, nhưng một số nấm phân lập được ở đáy hồ ao, sông suối hay đáy biển lại gọi là nấm ưa nước hay nấm ưa mặn.

Để phân lập được nhiều loài nấm khác nhau, chúng ta nên lấy mẫu đất trên bề mặt dưới lớp lá cây mục bởi vì quần thể nấm tập trung trên lớp đất bề mặt nhiều hơn là phần dưới đất sâu. Khi lấy mẫu ta gạt bỏ lớp lá mục để lộ bề mặt lớp đất và dùng thìa sạch lấy phần đất bề mặt đó cho vào túi ni lông. Đồng thời ghi các thông số cần thiết về nơi lấy mẫu: địa chỉ, kinh độ, vĩ độ, ngày lấy mẫu, tình trạng lấy mẫu, nhiệt độ lúc lấy mẫu, người lấy mẫu.

II. Lá và cành cây khô:

Nấm Sợi phân lập từ lá và cành cây khô gọi là nấm rác (litter fungi). Để phân lập nấm rác có hiệu quả chúng ta phải lấy mẫu lá và cành cây tốt, trong trường hợp nấm rác, chúng ta phân lập được các loài nấm khác nhau khi lấy mẫu ở độ sâu khác nhau trong cùng một mẫu.

Mẫu lá cây khô lấy được nên để trong túi bằng giấy và nên xử lý ngay để phân lập, vì nếu để lâu theo thời gian mẫu khô dần, nấm rác trong mẫu sẽ phát triển kém đi và các vi sinh vật bên ngoài sẽ xâm nhiễm vào.

Vì thế phải ghi rõ tên thực vật lấy mẫu, độ phân huỷ của lá cây rụng, nơi lấy mẫu (kinh dộ, vĩ độ, địa chỉ), ngày tháng lấy mẫu, người lấy mẫu.

III. Lá tươi và vỏ cây:

       Có ít nhất 3 nhóm nấm phân lập từ lá cây tươi, nhóm thứ nhât là nấm bề mặt lá (phyloplane fungi). Nhóm thứ 2 thuộc về nấm gây bệnh, bao gồm ký sinh bắt buộc và không bắt buộc. Nhóm thứ 3 là nấm thực vật hoại sinh, nhưng sự khác nhau giữa nhóm thứ 3 này và nhóm kí sinh không bắt buộc không phải lúc nào cũng rõ ràng.

Trong khi lấy mẫu lá cây tươi và vỏ cây, luôn phải ghi nhớ 6 điều sau:

1, Quá trình phân huỷ có thể đã diễn ra, mặc dù trông bề ngoài lá vẫn như đang còn tươi (đặc biệt điều này hay diễn ra ở vùng nhiệt đới).

2, Hệ sinh thái nấm trên lá thực vật sau khi ngắt có thể khác đi so với khi chúng còn trên cây.

3, Tính đa dạng sinh học của nấm ở lá tươi còn non sẽ kém hơn ở lá đã trưởng thành.

4, Hệ sinh thái nấm có thể khác nhau giữa bề mặt lá và mặt sau của lá.

5, Trong cùng một cây độ cao lấy mẫu của chúng sẽ cho hệ sinh thái nấm khác nhau.

6, Mỗi loài thực vật khác nhau sẽ phân lập được các chủng nấm đặc hiệu, ví dụ như loài nấm Trochophora simplex chỉ phân lập được từ cây Daphniphyllum macropodium.

Đặc biệt khi phân lập nấm từ mẫu lá và vỏ cây thực vật chúng ta rất khó có thể phân lập được loài nấm trong thực vật gọi là nấm nước trên cạn (terrestrial aquatic fungi). Bởi vì nhóm nấm này sinh trưởng rất chậm và không dễ dàng sinh bào tử như những nấm trên bề mặt, nấm gây bệnh hay cácnấm hoại sinh khác. Vì thế khó có thể phân lập các loài nấm này từ lá cây hay từ vỏ cây nếu chỉ sử dụng những kỹ thuật phân lập thông thường.

Nấm nước trên cạn sinh bào tử nhanh chóng nếu có nước kích thích, chẳng hạn gặp mưa, sương. Chúng ta lấy mẫu sau khi trời mưa hoặc lấy mẫu từ những giọt sương đọng trên cành lá.

IV. Phân.

Thành phần hữu cơ trong phân là rất lớn, do đó khu hệ vi sinh vật trong đó vô cùng đa dạng. Những loài nấm có thể tồn tại được trên phân động vật được gọi là nấm phân. Sự thay đổi của nấm phân xuất hiện trên một mẫu phân động vật là một ví dụ điển hình về tính kế thừa ở nấm. Xuất hiện đầu tiên là ngành nấm tiếp hợp Zygomycota (ví dụ Basidiobolus), tiếp đến là Pyrenomycetes, Plectomycetes, và Discomycetes của ngành nấm túi Ascomycota (ví dụ Arthroderma, Gymnoascus,...) rồi đến các nấm hoại sinh (Ví dụ Arthrobotrys, Oedocephalum, Scopulariopsis,...) và cuối cùng là nấm đảm Basidiomycota (ví dụ Corprinus) [5].

Người ta thường phân lập nấm phân từ phân động vật ăn cỏ chẳng hạn như phân ngựa, cừu, dê, thỏ, gia súc, và thậm chí  là chuột cũng đã được công bố. [5]

V. Côn trùng.

       Những côn trùng nhỏ bé, chẳng hạn như amip, giun đất, ve rận, sâu bọ,.... là những mẫu tốt dùng cho phân lập nấm. Đặc biệt là nấm hoại sinh giun tròn (nematode-trapping fungi).

VI. Nước ngọt và các vật liệu có trong nước ngọt.

Từ mẫu nước ngọt chủ yếu phân lập được 2 nhóm nấm: nhóm thứ nhất là Chytridiomycota,  nhóm thứ 2 là các loài nấm ưa nước, ưa nước hiếu khí. Để phân lập nhóm nấm này, nên lấy mẫu nước ngọt và lá rơi ở những ổ sinh thái nước, chẳng hạn như ở sông, suối, ao hồ. Đặc biệt nấm ưa nước dễ dàng bị mắc vào những khúc gỗ mục dưới lòng suối hay đằng sau các hốc đá có dòng nước chảy tạo bọt.

VII. Nước mặn và các vật liệu có trong nước mặn.

Nấm sợi sống ở nước mặn gọi là nấm sợi ưa mặn, những đặc điểm hình thái và sinh lý của chúng giúp chúng thích nghi được với môi trường mặn. Có 2 nhóm nấm ưa mặn: một loại là ưa mặn bắt buộc (toàn bộ vòng đời của chúng trải qua trong môi trường mặn); loại kia là ưa mặn không bắt buộc (phần lớn có thể phân lập được chúng trong môi trường đất và cả trong môi trường mặn).

Để phân lập nấm ưa mặn, ta có thể lấy mẫu từ các cành củi mục, thực vật ưa mặn, thực vật ven biển, từ cát ở bãi biển và từ nước biển, đặc biệt là bọt biển là mẫu rất tốt để phân lập nấm ưa mặn.

Tóm lại: Để lấy mẫu phân lập nấm thì bất kỳ loại mẫu nào cũng đều tốt, đều quan trọng, điều chủ yếu vẫn dựa vào mục đích phân lập nhóm nấm nào cần thiết cho công tác nghiên cứu để sự lựa chọn mẫu và phương pháp lấy mẫu.

Trên cùng một cơ chất, có thể có nhiều nhóm nấm tồn tại mỗi nhóm lại có một chu kỳ sống khác nhau, nên phân lập ở nhiều thời điểm khác nhau và bằng các phương pháp khác nhau thì có thể phân lập được loài mới hay tìm ra một hệ sinh thái mới của nấm.

PHƯƠNG PHÁP PHÂN LẬP:

Kỹ thuật phân lập để tìm ra loài nấm mới hay nấm hữu ích là rất quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Không có một quy luật chung nào dùng cho phân lập vi sinh vật. Phương pháp phân lập tốt nhất sẽ là phương pháp mà ta lựa chọn để phân lập vi sinh vật mà ta cần. Suy nghĩ một cách sáng tạo cho công việc và thành thạo với các kỹ thuật  phân lập mới là yêu cầu chung của bất kỳ một nhà vi sinh vật nào.

Các nhà nấm học Nhật Bản thường dùng các phương pháp sau để phân lập nấm sợi: Sử dụng kim nhọn nhặt bào tử (Dr. Chiharu Nakashima); Phân lập bào tử đơn độc (Dr. Chiharu Nakashima); Sử dụng vi thao tác Skerman (Dr. Katsuhiko Ando);  Phương pháp pha loãng (Dr. Misa Otoguro); Phân lập từ bào tử  đảm (Dr. Chiharu Nakashima); Phương pháp rửa bề mặt (Dr. Katsuhiko Ando); Phương pháp sát khuẩn bề mặt (Dr. Ju-Young Park); Phương pháp dùng buồng kích ẩm (Dr. Katsuhiko Ando); Phương pháp kích thích sự nảy mầm của nấm(Dr. Ju-Young Park); Phương pháp sục khí (Dr. Katsuhiko Ando). Dưới đây chúng tôi xin phép trình bày một số phương pháp hay dùng nhất, đã áp dụng phân lập nấm trong đất, trong lá cây rụng và nấm nội sinh endophyte tại Bảo tàng Giống chuẩn Vi sinh vật- Trung tâm công nghệ Sinh học- Đại học Quốc gia Hà nội trong chương trình hợp tác về nghiên cứu đa dạng sinh học với Viện Công nghệ và Đo lường Quốc gia Nhật Bản (NITE- Japan).

1. Phương pháp dùng kim nhọn:

Sử dụng phương pháp này để  phân lập tất cả mọi loại nấm phát triển trên bất kỳ một cơ chất nào.

Cách làm:

1) Đặt cơ chất cần phân lập (lá, cành cây mục,...)  lên kính hiển vi vật kính X10 (độ phóng đại 10 lần) hoặc lên kính lúp.

2) Chỉnh tiêu cự để quan sát được bào tử, cuống sinh bào tử từ cơ chất.

3) Khử trùng que nhọn bằng ngọn lửa đèn cồn.

4) Đưa que nhọn vào khoảng giữa vật kính và cơ chất, nhặt bào tử chuyển sang môi trường phân lập.

5) Nuôi cấy bào tử ở nhiệt độ 250C, quan sát sự nảy mầm của bào tử hàng ngày đến khi hình thành khuẩn lạc thì chuyển sang môi trường thạch nghiêng.

2. Phương pháp phân lập bào tử đơn độc:


Sử dụng phương pháp này để phân lập nấm gây bệnh thực vật.

Cách làm:

1) Chuẩn bị dịch huyền phù bào tử:

 Dùng kim nhọn đánh bẹt 1 đầu, gắn vào một cái tay cầm chắc chắn, dùng que đó cào vào chỗ trên lá cây bệnh có xuất hiện đốm nấm, đặt sang lam kính đã có sẵn một giọt nước vô trùng,  khuấy đềù.

2) Dùng đầu kim lấy một giọt nước có hoà tan bào tử đó vẽ một hình tam giác lên môi trường thạch nước (Water agar). Ủ 200C trong 24 giờ.

3) Quan sát bằng kính hiển vi, tìm bào tử nảy mầm trên môi trường thạch đĩa theo đường viền tam giác trên. Đánh dấu điểm có bào tử nẩy mầm bằng bút viết kính ở mặt dưới đĩa thạch.

4) Chuyển đĩa môi trường thạch có nuôi cấy các bào tử trên sang kính lúp. Quan sát vị trí đánh dấu bào tử nẩy mầm. Thanh trùng que cấy, dùng que cấy lấy bào tử nảy mầm ra, chuyển sang ống nghiệm môi trường thạch nghiêng để nuôi cấy.

 

3. Phương pháp dùng vi thao tác Skerman: 

Chuẩn bị dụng cụ:

Bộ vi thao tác Skerma gồm 5 phần (hình bên).

1) Lấy một ống pipet pastơ hơ trên ngọn lửa đèn cồn, kéo thành ống rất nhỏ, dài khoảng 4cm, gắn vào ống sắt trên cục nam châm D ( cố định bằng parafin nóng chảy).

2) Cố định phần dụng cụ B vào vật kính 10

3) Gắn nam châm có ống thuỷ tinh vào rãnh kim loại của dụng cụ B.

4) Di chuyển phần thiết bị có gắn cục nam châm lên xuống cho đến khi nhìn thấy đầu ống thuỷ tinh ở giữa vi trường.

5) Gắn đầu kim hàn E vào biến thế A và đặt vào vị trí đặt tiêu bản của kính hiển vi.

   6) Chỉnh kính, tìm vi trường, quan sát đầu kim hàn, điều chỉnh sao cho đầu que hàn và ống thuỷ tinh sát nhau và đều quan sát được dưới kính hiển vi.

   7) Bật biến thế A nấc cao để đầu que hàn nóng đỏ và tiến về phía ống thuỷ tinh, ấn que hàn chạm vào ống thuỷ tinh để ống thuỷ tinh bắt đầu nóng chảy, kéo nhanh ống thuỷ tinh khỏi kim hàn tạo thành que thuỷ tinh thuôn nhọn.

   8) Hạ nhiệt độ que hàn bằng cách giảm biến thế, dùng đầu que hàn chạm nhẹ vào đầu que thuỷ tinh kéo nhẹ tạo thành hình chữ L.

Giờ đây ta có thể bắt đầu thực hành lấy từng bào tử đơn độc trên đĩa thạch.

Các bước tiến hành:

1) Chuẩn bị mẫu: lá cây khô, cho vào hộp nhựa hoặc túi ni lông có chứa nước vô trùng sẵn để làm ẩm, giữ  2-3 ngày ở nhiệt độ phòng, để kích thích bào tử nẩy mầm.

2) Lấy mẫu lá trên cho vào cốc thuỷ tinh, cho thêm nước cất, khuấy nhẹ nhàng cho bào tử nổi lên mặt nước.

3) Thu thập bào tử bằng cách lấy lam kính để nghiêng 450 so với mặt nước để lấy nước trên bề mặt cốc. Dùng lam kính đó trải một đường thẳng trên mặt đĩa môi trường phân lập nấm  LCA (Low cacbon agar), MEA (Malt extract agar).

4) Quan sát đĩa thạch trên dưới kính hiển vi, tìm bào tử có hình dạng đặc biệt. Khi thấy bào tử cần tìm thì giữ nguyên vị trí.

5) Gắn phần dụng cụ hình chữ V (hình C) của bộ vi thao tác vào vật kính 10 của kính hiển vi. Tiếp đến gắn phần nam châm có que thuỷ tinh hình chữ L vừa làm xong vào phần dụng cụ chữ V đó.

Điều chỉnh lên xuống sao cho có thể quan sát được đầu chữ L của que thuỷ tinh.

6) Nâng kính lên sao cho bề mặt thạch sát với đầu que thuỷ tinh, lúc này ta có thể quan sát được cả bào tử nấm cần tìm và cả đầu L của que thuỷ tinh.

7) Dùng que L kéo bào tử  cần lấy ra phần môi trường sạch của đĩa thạch. Dùng chính kim phần chữ L đó đánh dấu điểm đặt bào tử.

8) Hạ đĩa môi trường thấp xuống và dùng que cấy vô trùng lấy bào tử tại điểm đánh dấu chuyển sang đĩa thạch môi trường MEA. Nuôi cấy ở nhiệt độ phòng và quan sát sự nảy mầm của bào tử hàng ngày. Nếu bào tử nảy mầm thì có thể chuyển sang thạch nghiêng để giữ giống sau khi để ở thạch đĩa 2-4 tuần.

4. Phương pháp pha loãng:

Phương pháp này dùng cho các mẫu đất.

1. Trước hết các mẫu đất phải được xử lý trước khi phân lập bằng cách phơi khô ở nhiệt độ phòng 2-3 ngày, sau đó dùng rây qua sàng có kích thước 2-3mm.

2. Cân 1g đất đã xử lý cho vào 9ml nước cất khử trùng, dùng vortex hoà tan đất.

3. Pha loãng mẫu ở các nồng độ pha loãng khác nhau: 10-4, 10-5 là 2 nồng độ thích hợp để phân lập nấm trong đất ở Việt Nam.

4. Hút 0,5 ml dịch pha loãng ở 2 nồng độ trên nhỏ lên đĩa Peptri chứa môi trường phân lập ( môi trường Martin, hoặc môi trường cơ sở). Dùng que gạt trang đều dịch trên bề mặt thạch.

5. Đặt đĩa thạch trong tủ 250C, phân lập nấm sợi từ những khuẩn lạc riêng rẽ trên đĩa thạch sau khoảng thời gian 4- 10 ngày.

5. Phương pháp pha loãng kết hợp với xử lý tia cực tím:

       Tương tự như 4 bước ban đầu của phương pháp pha loãng. Thêm một bước tiếp đó là đặt đĩa Peptri chứa môi trường phân lập và đã gạt  dịch pha loãng đều trên bề mặt thạch vào tủ cấy và bật đèn tím 20 phút.

Các bước khác tương tự như phương pháp pha loãng thông thường.

6. Phương pháp phân lập nấm đảm và nấm túi (Basidiomycetes và Ascomycetes)

       1. Quả thể nấm sau khi thu hái, rửa sạch, cắt miếng nhỏ khoảng 5cm phần bên trong.

       2. Rửa sạch bằng nước cất vô trùng (2-3 phút), sau đó dùng băng dính 2 mặt dính 3-4 miếng cắt quả thể gắn vào nắp trên của đĩa thạch nước. Đánh dấu vị trí gắn miếng nấm bằng bút viết kính ở đáy đĩa thạch nước.

       3. Ủ 200C trong vòng 24 giờ.

       4. Soi dưới kính lúp tại vị trí đánh dấu xem độ nảy mầm của bào tử nấm.

       5. Dùng que cấy hình vòng tròn lấy đám bào tử vừa nảy mầm đó chuyển sang đĩa môi trường thạch cao malt.

7. Phương pháp rửa bề mặt:

Phương pháp này dùng để phân lập nấm từ lá tươi hoặc lá rụng.

Cách làm:

       1) Cắt mẫu lá cây (tươi và khô), rễ cây, cành cây,... ra thành các miếng nhỏ,  sau đó cho vào ống nghiệm.

       2)Thêm 20ml dung dịch 0.005% Aerosol OT (di-iso-octyl sodium sulfosuccinate) hoặc dung dịch 0.005% Tween 80, lắc mạnh bằng máy vortex khoảng 10 phút để loại trừ vi sinh vật bám trên bề mặt mẫu.

       3) Bước làm khô mẫu: loại bỏ nước trong ống nghiệm, dùng kẹp vô trùng lấy mẫu ra đặt lên bề mặt giấy lọc để qua đêm trong tủ cấy vô trùng, bước này có tác dụng loại bỏ sự nhiễm khuẩn.

       4) Dùng kẹp vô trùng đặt mẫu đã làm khô lên bề mặt môi trường thạch LCA lăn một vòng mẫu lá (để loại tạp nhiễm (nếu có) một lần nữa), mỗi đĩa thạch có thể chia làm 8 phần để kiểm tra.

       5) Sau đó chuyển mẫu sang đĩa thạch môi trường LCA vô trùng khác, mỗi đĩa nên đặt một mẫu, mỗi mẫu 5 miếng cắt. Ủ ở nhiệt độ 250C trong vòng một tháng.

       6) Trong khoảng thời gian đó hàng ngày phải kiểm tra sự nảy mầm của các vi sinh vật dưới kính lúp, phân lập nấm sợi nếu có.

 

PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LOẠI NẤM SỢI

 I Yêu cầu:

       - Có được các chủng nấm sợi thật thuần khiết (không được lẫn tạp nấm  hoặc các vi sinh vật khác).

       - Các chủng cần định loại phải được nuôi cấy trên các môi trường, nhiệt độ, thời gian nuôi cấy theo đúng quy định của các khoá phân loại đối vối từng chi nấm mốc.

II. Quy trình định loại một chủng nấm sợi:

1. Quan sát đặc điểm phân loại của chủng nấm sợi cần định loại.

1.1. Quan sát đặc điểm khuẩn lạc trên thạch

       - Hình dáng

       - Kích thước (đường kính, chiều dày)

       - Dạng mặt (nhung mượt, mịn, len xốp, dạng hạt, lồi lõm, có khía hay không…)

       - Màu sắc khuẩn lạc mặt trên và mặt dưới

       - Dạng mép khuẩn lạc (mỏng, dày, phẳng, nhăn nheo…)

       - Giọt tiết nếu có (nhiều, ít, màu sắc)

       - Mùi khuẩn lạc (có, không mùi)

       - Sắc tố hoà tan (màu của môi trường xung quanh khuẩn lạc) nếu có.

       - Các cấu trúc khác: bó sợi, bó giá (Synnematous or sporodochial conidiomata) các cấu trúc mang bào tử trần (Fruit body - conidiomata) như đĩa giá (acervuli) hoặc túi giá (Pycnidia), đệm nấm (Stroma), hạch nấm (sclerotia) vv..

1.2. Quan sát các đặc điểm vi học

       - Sợi nấm: (hyphae) có vách ngăn, không có vách ngăn, có mấu.

       - Bào tử trần(conidia): kiểu phát sinh bào tử trần (ở nấm bất toàn), hình dạng, kích thước, màu sắc, bề mặt (nhẵn, có gai, gồ ghề) cách sắp xếp đơn độc chuỗi gốc non (basipetal) chuỗi gốc già (acropetal) khối cầu vv…

       - Bộ máy mang bào tử (spore apparatus): nang bào tử và nang bào tử nhỏ (nếu có) (Sporangia & Sporangiola) hình dáng, kích thước, màu sắc, bề mặt của nang, cuống nang, không hoặc có nhánh (nhánh mọc vòng, mọc cách, hợp trục vv…); bào tử nang ( hình dạng, kích thước, bề mặt, …) ở nấm tiếp hợp.

       - Bộ máy mang bào tử trần (conidiogenous apparatus): giá bào tử trần (conidiophore) - kích thước, đường kính, chiều dài, bề mặt (nhẵn, có gai, có nốt sần, vv…) màu sắc, có vách ngang hoặc không, có hoặc không có cấu trúc đặc biệt như tế bào chân (foot cell) sợi cứng (setae) tăng trưởng ở gốc hoặc ở ngọn có hoặc không có dạng hình thái đặc biệt như bó giá, đệm giá. Các  nhánh (của bào tử trần) số lượng nhánh, kích thước bề mặt, màu sắc, cách sắp xếp (đối xứng, không đối xứng sát nhau hoặc tẽ rộng, vị trí dọc giá bào tử trần hoặc tập trung ở ngọn giá)vv…

       - Tế bào sinh bào tử trần (conidiogenous cell)

Kiểu tế bào sinh bào tử trần (thể bình, dạng có khuyên ở đỉnh, dạng sinh bào tử trần đồng thời, như dạng (dạng bình- phialo type; dạng phân đốt, Annello type). Dạng sinh bào tử trần không đồng thời (Aleurio- type), bào tử đính kiểu nảy chồi (Blasto - type), dạng sinh bào tử trần qua lỗ để lại sẹo (Poro - type) vv.. hình dạng, kích thước, màu sắc, cách sắp xếp (đơn dộc hoặc thành cụm, thành vòng), vị trí (trên sợi nấm, dọc theo giá bào tử trần, các nhánh hoặc ở đính giá) vv…

       - Thể quả túi (ascocarp) như cleistothecium, cần khảo sát vị trí, số lượng, hình dạng, kích thước, màu sắc, bề mặt của thể quả, quan sát túi bào tử  (ascus) bào tử túi (ascospore) về hình dạng, kích thước bề mặt.

III. Tiến hành định loại

Căn cứ vào kết quả quan sát đầy đủ, chính xác các đặc điểm của khuẩn lạc và các đặc điểm vi học tiến hành xác định tên loài (hoặc thứ nếu có) chủng nấm mốc như sau:

       - Dùng khoá phân loại của các nhóm phân loại bậc cao (ngành, ngành phụ, lớp, bộ, họ, chi) để xác định lần lượt xem những nấm mốc thuộc chi nấm mốc nào. Tiếp theo dùng khoá phân loại của chi đó để xác định đến loài (thứ) bằng cách so sánh tất cả các đặc điểm đã quan sát được của chủng nấm mốc đó với các đặc điểm tương ứng của loài nào đó trong khoá phân loại. Nếu các đặc điểm so sánh phù hợp với đặc điểm của loài mô tả trong khoá, ta xác định được tên loài của chủng nấm mốc cần định loại.

       - Nếu có chủng nấm mẫu của loài (hoặc thứ) vừa xác định thì tiến hành so sánh các đặc điểm hình thái khuẩn lạc, đặc điểm vi học của chủng mẫu với các đặc điểm tương ứng của chủng cần định loại. Nếu các đặc điểm của 2 chủng phù hợp với nhau thì có thể khẳng định chắc chắn loài (hoặc thứ) của chủng nấm mốc cần định loại.

- Nếu có chủng nấm mẫu của loài (hoặc thứ) vừa xác định thì tiến hành so sánh các đặc điểm hình thái khuẩn lạc, đặc điểm vi học của chủng mẫu với các đặc điểm tương ứng của chủng cần định loại. Nếu các đặc điểm của 2 chủng phù hợp với nhau thì có thể khẳng định chắc chắn loài (hoặc thứ) của chủng nấm mốc cần định loại.

 

KHOÁ PHÂN LOẠI ĐẾN LỚP( Robert A. samson, 1984)

 

1a. Khuẩn lạc gồm các tế bào nảy chồi, không có hệ sợi  NẤM MEN ( YEAST)

1b. Khuẩn lạc với hệ sợi sinh dưỡng phát triển,

bào tử trần hoặc bào tử sinh ra trong hoặc trên các bào tử đặc biệt          2

2a. Bào tử sinh ra trong túi bào tử                  NẤM TÚI (ASCOMYCETES)

2b. Bào tử hoặc bào tử trần không sinh ra trong túi bào tử                      3

3a. Hệ sợi không có hoặc có rất ít vách ngăn, thường rộng;

bào tử kín sinh ra trong các nang bào tử kín NẤM TIẾP HỢP   (ZYGOMYCETES)

3b. Sợi nấm thường có vách ngăn, bào tử trần không sinh

ra trong các nang bào tử kín.         NẤM BẤT TOÀN (DEUTEROMYCETES)

 

I. LỚP NẤM TIẾP HỢP (ZYGOMYCETES)

       Đối với nấm mốc thuộc lớp nấm tiếp hợp có thể dụng các chuyên luận phân loại sau:

       - Kerry L.Odonnell, 1979 – Zygomycetes in culture Department of Botany, University of Georgia.

       - M.A.A. Schipper, 1973 – A study on variability in Mucorhemalis and related spicies. Studies in Mycology, No. 4

       - M.A.A. Schipper, 1978 – On certain species of Mucor with a key to all accepter species. Studies in Mycology, No. 17

       - M.A.A. Schipper, 1984 – A revision of the genus Rhizopus – Studies Mycology, No. 25

 

II. LỚP NẤM BẤT TOÀN (DEUTEROMYCETES)

* Nấm bất toàn là gì:

       - Nấm bất toàn là giai đoạn vô tính ( Anamorph) của nấm túi hoặc nấm đảm.

1. Đặc điểm đặc trưng:

 Gồm các loài nấm mốc gây ô nhiễm thực phẩm, có nhiều loài sinh độc tố (mycotoxin), các chi, loài của lớp nấm này được phân loại theo giai đoạn sinh sản vô tính (anamorph) tuy vậy ở một số loài người ta phát hiện thấy có giai đoạn sinh sản hữu tính (Teleomorph- bào tử túi hoặc bào tử đảm).

       Theo hệ thống phân loại căn cứ vào đặc điểm phát sinh của bào tử trần của Hughes (1953). Lớp nấm bất toàn được chia thành 3 nhóm:

       - Nhóm Hyphomycetes: Gồm các nấm bất toàn không có túi giá và đĩa giá (giá sinh bào tử trần ở trên các sợi nấm hoặc các sợi nấm kết lại thành bó sợi, bó giá).

       - Nhóm Coelomycetes: Gồm các nấm bất toàn có túi giá hoặc đĩa giá, giá bào tử trần ở trong các thể quả (Fruit - body) gọi là các conidiomata.

       - Nhóm Agonomycetes: Gồm các nấm bất toàn không có bào tử trần.

Ở đây chúng tôi giới thiệu 2 khoá phân loại đến chi của lớp nấm bất toàn.

 

2. Phân lớp của nấm bất toàn:

2.1. Hyphomycetes (1700 chi, 11000 loài)

       - Các dạng hệ sợi nấm mang các bào tử trên sợi riêng rẽ hoặc trên cụm sợi nấm (như các đệm nấm, các bó giá), nhưng không ở trong các conidiomata (fruit body) riêng biệt.

 

2.2. Coelomycetes (700 chi, 9000 spp) riêng rẽ

        - Bào tử trần sinh ra trong các túi giá, đĩa giá, túi giá dạng cốc hoặc đệm giá.

 

 

 

1. Bào tử trần, 2. Tế bào sinh bào tử trần,

3. Cuống sinh bào tử trần, 4. Sợi nấm

Cơ quan sinh sản vô tính của chi Penicillium

 

3. Những bộ phận sinh sản vô tính.

3.1. Hypha (sợi nấm) số nhiều của Hyphae.

       - Một trong các sợi trong hệ nấm là các tản của một sợi nấm. Các tản khác biệt với các phần sợi sinh dưỡng hấp phụ chất dinh dưỡng.

3.2. Bào tử trần:

       - Một loại bào tử vô tính, không chuyển động (Zoospose) đặc biệt. Một loại phát tán.

3.3. Tế bào sinh bào tử trần:

       - Một tế bào bất kỳ mà từ đó một bào tử được sinh ra trực tiếp.

3.3.1. Các kiểu phát sinh bào tử trần.

a. Tản: - Tản toàn bộ

         - Tản bên trong

b. Nảy mầm: - Nảy mầm toàn thể

               - Nảy mầm từ trong

 

 

a-b. Dạng tản. a- Tạo chuỗi. b- Đơn độc

 

 

 

 

 

 

a-f. Dạng phát sinh kiểu nảy chồi (blastic) a. Nảy chồi đơn độc, b. Tạo thành chuỗi, c. Các Bào tử được tạo thành cùng một lúc, d. Các bào tử có đáy hẹp,

e. Đáy bằng, f. Các bào tử chui qua lỗ

 

3.3.2. Các kiểu phát triển bào tử trần trong sự phát sinh bào tử dạng nảy chồi  (blastic),(Theo Katsuhiko Ando, 2002).

* Sự phát sinh bào tử phân cắt hoàn toàn (ngoại sinh)

a. Kiểu bào tử đính (Aleurio - type).

- Một điểm trên tế bào sinh

bào tử trần, bào tử đơn độc

b. Kiểu nảy chồi (Blasto - type)

- Cấu trúc màng đỉnh ở vị trí trên

 tế bào sinh bào tử trần và chuỗi bào tử

 với một vị trí để tạo thành mộ chuỗi

 liên tiếp không phân nhánh (chuỗi gốc già)

 

* Phát sinh bào tử nội sinh.

c. Dạng bình (Phialo - type)

- Các chuỗi bào tử ra khỏi tế bào

sinh bào tử trần ở cùng một vị trí,

đôi khi trong các chuỗi rời tế bào có thay đổi.

d. Dạng phân đốt (Annello - type)

- Các chuỗi bào tử ra khỏi tế

bào sinh bào tử trần ở các vị trí cao hơn,

 thỉnh thoảng trong các chuỗi rời,                      

tế bào có thay đổi.

 

3.4. Vị trí sinh bào tử trần ở tế bào sinh bào tử trần:

a. Một vị trí

- Bào tử trần phát triển ở một

 vị trí trên tế bào sinh bào tử trần.

b. Nhiều vị trí

- Bào tử trần phát triển ở các vị trí

 khác nhau trên tế bào sinh bào tử trần.

 

 

3.5. Sự phát triển của các tế bào sinh bào tử trần:

a. ổn định

- Kích thước của tế bào sinh bào tử trần là ổn định

b. Kéo dài

- Tế bào sinh bào tử trần phát triển

 cùng với sự sản sinh các bào tử trần

c. Giảm dần

- Độ dài các tế bào sinh bào tử trần

giảm đi khi mỗi bào tử trần được sinh ra

 

3.6. Cuống sinh bào tử trần:

       - Một sợi nấm phân nhánh hoặc đơn giản (một sợi nấm sinh sản) mang hoặc gồm có các tế bào sinh bào tử trần mà từ đó các bào tử trần được sinh ra. Đôi khi được dùng khi mô tả những cấu trúc biến đổi đối với các tế bào sinh bào tử trần.

3.6.1. Cuống sinh bào tử trần không có, tế bào sinh bào tử trần gồm các tế bào sợi nấm.

a. Cuống sinh bào tử trần không có,

 tế bào sinh bào tử trần nằm trên sợi nấm.

b. Không có cuống sinh bào tử trần

hoặc không rõ.

c. Cuống sinh bào tử trần có hoặc

không có vách ngăn,

đơn giản không phân nhánh.

d. Cuống sinh bào tử trần kéo dài

cùng với việc sinh bào tử trần.

e. Cuống có vách ngăn, phát triển

đơn độc hoặc phân nhánh

f. Bó cuống bào tử trần (Synemata).

 Gồm một nhóm các cuống sinh bào tử trần

 bó chặt hoặc lỏng  mang các bào tử trần

ở đỉnh hoặc cả đỉnh và bên cạnh cuống.

 

3.7.Bào tử trần (conidia)

3.7.1. Hình dáng của bào tử trần

a. Hình dạng đơn giản:

       Ví dụ: Cầu, gần cầu, elip, hình quả thận.

b. Bào tử sợi:

 - Tỷ lệ chiều dài và rộng của bào tử = 15:1.

c. Bào tử vách lưới

 - Bào tử được chia nhỏ ra bởi các vách ngăn chéo nhau.

d. Bào tử xoắn ốc

 - Trục bào tử uốn cong hơn 1800.

e. Bào tử dạng chữ thập

 - Bào tử có nhiều trục, có mấu, có lông mềm chiếm 1/4 chiều dài của bào tử.

 

3.7.2. Số các tế bào của bào tử trần:

a. Bào tử không vách:

Bào tử không có vách ngăn.

b. Bào tử kép (dính đôi):

Bào tử một vách ngăn.

c. Bào tử vách:

Bào tử có hai vách ngăn trở lên.

3.7.3. Màu của bào tử trần:

 - Trong suốt hoặc có màu (nâu, nâu đen…).

3.7.4. Bề mặt của bào tử trần:

 - Gai, hạt, có mấu, nhẵn...

3.7.5. Kích thước của bào tử trần:

       (35-)50-200(-300) x (2,0-)2,5-3,5(-4,5)àm.

3.7.6. Các hình dạng khác nhau của bào tử.

 

 

1. Hình cầu, 2. Gần cầu, 3. Hình bánh quy, 4. Hình giọt lệ, 5. Hình trứng,

6. Hình trứng ngược, 7. Quả lê, 8. Quả lê ngược, 9. Elíp, 10. Hình elíp chữ nhật, 11. Hình thoi, 12. Hình thoi méo, 13. Elíp nhọn đầu, 14. Hình thoi tròn đầu,

15. Dạng thuyền, 16. Hình quả thận, 17. Dạng xúc xích

 

 

1. Dạng kim, 2. Dạng quăn, 3. Dạng chữ S, 4. Dạng chỉ, 5. Dạng que, 6. Hình trụ, 7. Hình chữ nhật thuôn, 8. Hình thùng, 9. HÌnh mũ, 10. Hình có vành,

 11. Hình chuỗi, 12. Hình củ có mấu, 13. Hình góc cạnh, 14. Hình quả dâu,

15. 16. Dạng xù xì, 17. Dạng gai.

 

Xem tiếp Nấm sợi

 

© http://vietsciences.org   và  http://vietsciences.free.fr http://vietsciences2.free.fr   - Nguyễn Liên Hoa, Nguyễn Lân Dũng, Lê Hoàng Yến, Nguyễn Văn Bắc