Trong năm 2006 vừa qua có rất nhiều sự kiện làm thay đổi cơ bản mối
quan hệ Việt-Mỹ.
Tháng 5-2006 Mỹ kết thúc đàm phán song phương với
Việt Nam, mở đường cho Việt Nam gia nhập WTO.
Tháng 11-2006 Mỹ đưa
Việt Nam ra khỏi Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo
(CPC) và Tổng thống Bush thăm chính thức Việt Nam.
Tháng 12-2006 Quốc hội Mỹ phê chuẩn và sau đó Tổng thống Mỹ đã ký
ban hành Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn đối với Việt Nam
(PNTR). Những diễn biến này không chỉ giúp bình thường hóa hoàn toàn
quan hệ Việt- Mỹ mà còn báo hiệu một sự tăng vọt về quan hệ kinh tế
-thương mại khi các doanh nghiệp hai nước được tiếp cận thị trường của
nhau một cách đầy đủ. Số bạn trẻ sang Mỹ du học ngày càng đông. Số
doanh nghiệp làm ăn với Mỹ ngày càng nhiều. Không ít bạn muốn có cái
nhìn tổng quát về nước Mỹ hôm nay.
Nước Mỹ (hay Hoa Kỳ) gồm 48 bang nằm ở Bắc Mỹ, giữa Đại Tây Dương và
Thái Bình Dương, phía bắc giáp Canada, phía nam giáp Mexico. Còn có
thêm 2 bang tách rời là Alaska ở tây-bắc của Bắc Mỹ và bang Hawaii gồm
một số đảo trên Thái Bình Dương. Tổng diện tích là 9 629 091 km2, là
lãnh thổ lớn thứ 4 trên thế giới, bằng nửa nước Nga, rộng hơn Trung
Quốc một chút, bằng khoảng một nửa Nam Mỹ, bằng 3/10 châu Phi, lớn gấp
2,5 lần Tây Âu.
Nước Mỹ có dân số là 295 734 134 người (điều tra tháng 7-2005).
Trong
số đó có 77,1% là người da trắng, 12,9% là người da đen , 4,2% là
người châu Á và 1,5% là thổ dân da đỏ và thổ dân Alaska. Hàng năm hiện
có khoảng 1 triệu người nhập cư. Tính trung bình (1970-2003) số người
trong mỗi gia đình ở Mỹ là khoảng 3,19 người, số gia đình không có con
dưới 18 tuổi là 51%, 1 con- 21,6%, 2 con- 18%, 3 con- 6,9%, 4 con trở
lên- 2,6%. Năm 2003 có tới 27,5% con cái chỉ sống với mẹ (hoặc bố) .
Có khoảng 56% người dân theo đạo Tin Lành, 28% theo đạo Cơ đốc La Mã,
2% theo đạo Do Thái, 4% theo các tôn giáo khác và 10% không theo đạo
nào. Ngôn ngữ chủ yếu là tiếng Anh, một số ít nói tiếng Tây Ban Nha.
Mỹ tách ra khỏi khối thuộc địa Anh năm 1776 và lấy ngày Độc lập là
4-7-1776, ngày công bố Hiến pháp là 17-9-1787, có hiệu lực từ
4-3-1789. Quốc kỳ Mỹ có 50 ngôi sao tượng trưng cho 50 bang và 13 vạch
trắng, đỏ tượng trưng cho 13 bang khi mới lập quốc.
Mỹ là một nước Cộng hòa liên bang, thực hiện chế độ tam quyền phân
lập. Hiến pháp quy định quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành
pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Tòa án tối cao. Mỗi
bang lại có hệ thống Hiến pháp và pháp luật riêng nhưng không trái với
Hiến pháp của Liên bang.
Quốc hội Liên bang gồm có Hạ viện (453 hạ nghị sĩ, bầu theo tỷ lệ dân
số từng bang) và Thượng viện (100 thượng nghị sĩ, mỗi bang 2 người).
Nhiệm kỳ của hạ nghị sĩ là 2 năm, của thượng nghị sĩ là 6 năm nhưng cứ
2 năm lại bầu lại 1/3 số thượng nghị sĩ. Ngoài quyền lập pháp, Quốc
hội còn giám sát hoạt động của bộ máy hành pháp và tư pháp.
Hệ thống chính trị ở Mỹ chủ yếu do hai Đảng Dân chủ (biểu tượng là Con
lừa) và Đảng Cộng hòa (biểu tượng là con Voi ) kiểm soát. Đảng Dân chủ
được đông đảo người nghèo và giới công đoàn ủng hộ còn Đảng Cộng hòa
lại quan tâm nhiều hơn đến các thế lực tài phiệt, giới chuyên gia và
các tầng lớp trung lưu.
Mỹ là nước có nền kinh tế và có sức cạnh tranh lớn nhất thế giới. GDP
năm 2004 của Mỹ là 11 750 tỷ USD, bình quân đầu người là 40 100 USD.
Lực lượng lao động là 141,8 triệu người, trong đó chỉ có 2,5% làm việc
trong lĩnh vưc nông-lâm-ngư nghiệp (!). Vậy mà Mỹ làm ra trên 41% tổng
lượng ngô, 34,9% tổng lượng đậu tương và 13,1 tổng lượng lúa mỳ của
thế giới. Lượng nông sản xuất khẩu của Mỹ năm 2004 đạt tới kim ngạch
61,3 tỷ USD, trong đó 26% là lương thực, thức ăn chăn nuôi và 22% là
gia súc, gia cầm , sản phẩm động vật. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Mỹ
năm 2003 là 714,5 tỷ USD (f.o.b.) trong khi đó nhập khẩu tới 1260 tỷ
USD (f.o.b.).
Tổng số năng lượng được sản xuất ra ở Mỹ năm 2004 là tương ứng với
70,4. 1015 Btu , trong đó than đá chiếm 32,2%; khí thiên nhiên (khô)-
27,5%, khí thiên nhiên (lỏng)- 2,47%; dầu thô- 16,4%; năng lượng hạt
nhân- 11,7%; năng lượng tái tạo- 8,7%.
Các ngành công nghiệp chính của Mỹ gồm dầu mỏ, sắt thép, ô tô, hàng
không, viễn thông, hóa chất điện tử, chế biến thực phẩm, hàng tiêu
dùng, khai thác gỗ , khai thác khoáng sản. Mỹ nhập khẩu chủ yếu là dầu
thô, dầu tinh chế, máy móc, ô tô, hàng tiêu dùng, vật liệu công
nghiệp, thực phẩm và đồ uống. các đối tác xuất nhập khẩu chủ yếu của
Mỹ theo thứ tự là Canada, Mexico, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Hàn
Quốc, Đài Loan, Pháp, Malaysia, Italia, Iceland, Hà Lan, Singapore,
Brazil. Việt Nam xếp hạng thứ 40 với kim ngạch xuất nhập khẩu hai
chiều năm 2003 với Mỹ ( xuất khẩu từ Mỹ là 1291,1 triệu USD và nhập
khẩu vào Mỹ là 4472,0 triệu USD). Nếu chỉ tính riêng về xuất khẩu vào
Mỹ thì Việt Nam hiện xếp hạng thứ 35. Mỹ có quan hệ buôn bán với 230
quốc gia và lãnh thổ trên thế giới.
Mỹ là quốc gia có nền giáo dục và y tế phát triển. Chính phủ dành
khoảng 7,7% GDP cho giáo dục, năm 2001 số giáo viên THCS va THPT ở Mỹ
là 3 triệu 388 nghìn người ( 390 nghìn ở các trường tư thục), số giảng
viên các trường Cao đẳng và Đại học là 1 triệu 113 nghìn người (342
nghìn ở các trường tư thục). Năm 2001 có cả thảy 4 197 trường Cao đẳng
và Đại học. Năm 2003 số Bệnh viện trong cả nước là 5 764 cái , số
giường bệnh là 695 000 giường. Cả nước có 243,32 triệu người có thẻ
bảo hiểm y tế, chỉ còn 15,6% dân chúng chưa được bảo hiểm y tế.
Số
người năm 2003 được thay thận là 15 129 người (sống 96%), thay tim -
2055 người (sống 86%) , thay gan- 5669 người (sống 86%) , thay phổi-
1085 người (sống 79%), thay tụy - 502 người (sống 96%). Tỷ lệ bệnh
nhân chữa khỏi ung thư (tính sau 5 năm) trong giai đoạn 1995-2000 là
66% với người da trắng và 55% với người da đen. Tuy nhiên số người
chết về ung thư năm 2005 vẫn còn là 570 280 bệnh nhân, số người chết
vì AIDS trong giai đoạn 1981-2003 là 524 000 người. Đáng chú ý là
trong tổng số những bệnh nhân nhiễm HIV thì có 47,6% do đồng tính
luyến ái nam, 26,8% do tiêm chích ma túy, 6,8% do vừa đồng tính luyến
ái nam vừa tiêm chích ma túy, 16,3 % do tình dục nam nữ không an toàn
và 2,3% do các nguyên nhân khác. Tỷ lệ chết vì tai nạn năm 2001 là
35,7 người tính trên 100 000 dân.
Mỹ hiện còn ba vấn đề nan giải là thâm hụt ngân sách, thâm hụt thương
mại và thất nghiệp. Năm 2004 thâm hụt ngân sách lên đến gần 500 tỷ
USD. Năm 2003 thâm hụt thương mại hàng hóa là 549,4 tỷ USD, thương mại
dịch vụ thặng dư 60 tỷ USD. Tỷ lệ thất nghiệp năm 2003 là ở mức 6%.
Ngoài ra tỷ lệ lạm phát năm 2003 vẫn còn ở mức 1,8%.