Những bài
cùng tác giả
Tìm hiểu cơ cấu hình thành vạn vật
Khởi động máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới nhằm tìm hiểu sự
hình thành của vũ trụ.
Sáng nay mồng 7 tháng Mười, giải
Nobel 2008 vinh tặng ba nhà vật lý Nhật bản ngành lý
thuyết hạt cơ bản, các giáo sư Yoichiro Nambu (1921)
một ‘Nhật kiều’ ở Đại học Chicago, Makato Kobayashi
(1944) thuộc Trung tâm Quốc gia Vật lý năng lượng
cao ở Tsukuba và Toshihide Maskawa (1940) ở Đại học
Kyoto. Cho những ai ở trong ngành, tin này không gây
ngạc nhiên mà chỉ làm phấn khởi họ trên con đường
học hỏi sáng tạo, nhất là máy gia tốc hạt đầu tầu
thế giới LHC ở CERN vừa khởi động chưa đến tháng nay[1].
Chương trình ưu tiên số một của LHC là săn tìm hạt
cơ bản Higgs, hạt tạo nên khối lượng cho vật chất.
Ưu tiên số hai là câu hỏi đâu
rồi phản vật chất trong hoàn vũ bao la. Cái
thứ nhất liên quan mật thiết đến Nambu (công trình
của Peter Higgs không thể tách rời khỏi sáng kiến
của Nambu như Higgs xác nhận) và cái thứ hai đến
Kobayashi và Maskawa. Tiên đoán của hai ông về sự
hiện hữu tất yếu của hai quark top và bottom để giải
thích sự bất đối xứng vật chất-phản vật chất trong
Mô hình Chuẩn (Standard Model, xem phụ chú 1) đều
được thực nghiệm kiểm chứng với độ chính xác đáng
kinh ngạc. Người viết ước mong cùng bạn đọc tìm hiểu
con đường đưa đến giải Nobel này, một trong những
thành tựu tuyệt vời của vật lý lượng tử ở lãnh vực
thuộc biên giới của tri thức nhân loại đang nóng
bỏng.
1- Đối xứng
1a- Đối xứng P và CP.
Trong tiến trình khám phá các định luật khoa học, ít
nhất là trong phạm vi hạt cơ bản, nhiều nhà vật lý
lấy nguồn cảm hứng trong cái đẹp cân đối hài hoà của
thiên nhiên để quan sát, tìm tòi, suy luận, sáng
tạo. Cái đẹp đó dĩ nhiên chủ quan trong nghệ thuật,
văn chương, hội họa, âm nhạc, nhưng trong khoa học
nó khách quan, định lượng và mang tên gọi đối
xứng. Sự tìm kiếm những đối xứng (và sự vi phạm
nó một cách tuần tự kiểm soát được) cũng như tìm
kiếm những gì bất biến trong vật lý (dùng công cụ
nhóm đối xứng trong toán học) là phương pháp chỉ
đường phổ biến và hữu hiệu trong công cuộc khám phá.
Đối xứng gương là một thí dụ. Bạn hình dung đối xứng
đó như sau: tay phải (hay trái) của ta có hình trong
gương hệt như tay trái (hay phải), và cái ta gọi là
phía phải hay phía trái chỉ là một ước lệ giữa con
người. Không có gì cho ta phân biệt được mọi hiện
tượng ở ngoài gương và hình chiếu của hiện tượng đó
trong gương, sự hoán chuyển không gian x
↔ –
x hay đối xứng gương P
(Parity) không làm chúng thay đổi, chúng bất biến.
Một sáng nắng ấm mùa thu ngả đông với cây đỏ lá vàng
của Hà Nội thời xưa, tháp rùa mái cong cổ kính soi
hình xuống nước trong vắt pha lê của hồ gươm phẳng
lặng, tháp và bóng trong hồ là biểu hiện của đối
xứng gương toàn vẹn.
Chen Ning Yang
(1922,
Institute for Advanced Study
Princeton, NJ, USA)
và Tsung-Dao Lee (1926,
Columbia University New York, NY, USA)
(Nobel.se)
Hai nhà vật lý Trung Quốc ở Mỹ
T. D. Lee và C. N.Yang (giải Nobel 1957) khám phá ra
là lực hạt nhân yếu vi phạm tối đa cái đối
xứng gương P này, trong đó spin đóng vai trò
cực kỳ quan trọng. Spin của electron, của neutrino
đều hoàn toàn quay về phía trái mà không quay về
phía phải.
Một thí dụ khác là đối xứng vật
chất-phản vật chất hay đối xứng CP, theo đó
các định luật vận hành của vật và phản vật phải
giống hệt nhau. Chữ C trong CP chỉ
định điện tích (charge) vì hoán chuyển vật
chất-phản vật chất là trước tiên thay đổi dấu của
điện tích –e
↔ +e. Trong bốn tương tác
cơ bản thì ba lực hấp dẫn, điện từ và hạt nhân
mạnh đều tuân thủ phép đối xứng P và
CP, chỉ lực hạt nhân yếu mới vi phạm
chúng, tối đa với đối xứng P, đôi chút với
đối xứng CP, tương tác yếu của hạt và của
phản hạt khác nhau ở mực độ vừa phải.
1b-
Đối xứng chuẩn.
Nhưng có một đối xứng
không hề bị vi phạm, nó ngự trị tuyệt đối trong Sắc
Động Lực và Điện-Yếu, một đối xứng đặc trưng của vật
lý lượng tử, nó mang tên đối xứng chuẩn
(gauge symmetry). Chính cái đối xứng này đã mở ra
một chân trời mới lạ và là gốc nguồn cho sự thành
công kỳ diệu của Mô hình Chuẩn. Ai trong chúng ta
khi làm quen với cơ học lượng tử đều biết rằng bình
phương của hàm số sóng |Ψ(x)|2 cho ta
xác suất xảy ra đối với một đại lượng nào đó. Ta
thấy ngay hoán chuyển chuẩn Ψ(x)
↔ Ψ(x) Exp[iα(x)]
với bất kỳ hàm thực α(x) nào không làm thay đổi
|Ψ(x)|2, cũng vậy nó không làm thay đổi
các định luật của Mô hình Chuẩn, các đại lượng vật
lý phải bất biến với hoán chuyển chuẩn. Chính vì vậy
mà đối xứng chuẩn chi phối toàn diện sự vận hành của
các tương tác mạnh và điện-yếu. Cụ thể
ta mường tượng đối xứng này như sau: điện thế của
trái đất là một triệu volt và hai cực điện trong nhà
là 1000000 volt và 1000220 volt, nhưng máy của chúng
ta chạy với 220 volt không hề trục trặc mặc dầu hàng
triệu volt điện thế của quả đất. Cũng như α(x) là
bất kỳ hàm gì, có muôn ngàn điện thế khác nhau ở mọi
nơi trong hoàn vũ, nhưng định luật chi phối sự vận
hành của chúng phải điều hòa ra sao để cho ta một
trường điện từ duy nhất. Máy của chúng ta mang lên
các thiên thể xa xăm không bị chi phối bởi điện thế
tuỳ tiện lớn hay nhỏ trên đó, điện tích –e
của electron trong máy bao giờ cũng bất biến, ở đây
hay ở đó, lực điện từ chi phối máy của chúng ta cũng
là lực điện từ trên các thiên thể. Đó là ý nghĩa vật
lý của đối xứng chuẩn. Phương trình Maxwell của
tương tác điện-từ tuân thủ phép đối xứng chuẩn, đối
xứng này trở thành nguyên lý chủ trì cho sự phát
triển kỳ diệu của Điện động học lượng tử, những tính
toán trong lý thuyết này đưa ra nhiều tiên đoán
được thực nghiệm kiểm định tới độ chính xác cao hơn
một phần tỷ (momen từ của electron là một thí dụ).
Đặc điểm của đối xứng chuẩn là nó đòi hỏi các boson
- làm trung gian sứ giả cho fermion tương tác với
nhau qua trao đổi các boson này - phải không có
khối lượng. Hạt quang tử photon trong điện động
học lượng tử (QED) cũng như gluon trong sắc động lực
học lượng tử (QCD) là thí dụ của boson không có khối
lượng. Ta gọi chúng là boson chuẩn (gauge
bosons).
Ngay khi mới phác họa ra lý thuyết
để diễn tả lực yếu khoảng những năm đầu 1950, nhiều
nhà vật lý trong đó có Fermi, Feynman, Gell-Mann,
Yang, Lee, Glashow đã tinh ý nhận ra là giữa hai
tương tác điện từ và yếu có nhiều cấu trúc và
tính chất giống nhau, vậy hầu như là chuyện đương
nhiên nếu ta sử dụng phương pháp rất hiệu lực của
đối xứng chuẩn trong điện từ để khám phá những định
luật vận hành của lực yếu. Nhưng khốn thay, cái trở
ngại là boson chuẩn W (làm sứ giả cho tương tác này)
lại có khối lượng rất lớn chứ chẳng bằng 0 như
photon trong điện từ. Tại sao vậy? Vì lực yếu chỉ
tác động trong hạt nhân nguyên tử ở kích thước vi
mô, trong khi lực điện từ trải rộng khắp hoàn vũ, mà
tầm truyền R của lực lại tỷ lệ nghịch với
khối lượng M của boson làm trung gian cho lực
truyền đi, một hệ quả của nguyên lý bất định
Heisenberg theo đó RM ~ h. Biết tầm
truyền R của lực yếu, ta suy ra là boson W
phải có khoảng hai trăm ngàn lần khối lượng của
electron, như vậy tương tác yếu không có đối xứng
chuẩn. Ôi biết bao thất vọng nếu phương pháp diệu kỳ
của đối xứng chuẩn - nguyên nhân cho sự thành công
tuyệt vời của lý thuyết điện từ - xem ra chẳng sao
áp dụng được cho tương tác yếu.
Nhưng một chuyện ‘thần kỳ’ đã xẩy ra
để làm cho lực yếu cũng có đối xứng chuẩn như
điện từ, chuyện khởi đầu từ hiện tượng siêu dẫn của
ngành vật lý chất rắn ở kích thước trung mô xa lạ
với hạt cơ bản tung hoành trong thế giới vi mô.
Trong vật lý, cũng như trong nhiều môn khác, có một
số nhỏ nhà khoa học kiến thức xuyên ngành uyên thâm,
nhìn rộng ra ngoài cái chuyên của mình, tìm hiểu
những gì phổ quát để mang lại cho ngành mình một
luồng gió mới. Nhà vật lý Nhật bản Yoichiro Nambu ở
đại học Chicago là một trong số đó. Chuyên gia về
hạt sơ đẳng nhưng ông cũng lưu tâm và có cái nhìn
bao quát về vật lý siêu dẫn khác lạ với hạt, ông
nhận thấy có cái gì liên kết hai ngành - cấu trúc
toán học thì rất giống nhau nhưng vật lý thì lại
khác biệt - và phác họa ra ý tưởng làm sao cho lực
yếu cũng mang đối xứng chuẩn. Nhưng
chính Peter Higgs một nhà nghiên cứu ‘bình thường’
của xứ Scotland làm việc tại một đại học ‘nhỏ’
Newcastle upon Tyne đã tìm ra một kịch bản nhất quán
dẫn đến sự thống nhất Điện-Yếu của Glashow, Salam,
Weinberg với giải Nobel 1979.
1c- Siêu dẫn điện từ.
Hiện tượng siêu dẫn của vật liệu ở nhiệt độ thấp là
một đặc trưng của vật lý lượng tử, dòng điện truyền
qua một dây siêu dẫn có thể tồn tại hàng tỷ năm trên
lý thuyết, ước lượng khoảng vài trăm ngàn năm bởi đo
lường, nó không có điện trở. Một điện trường dẫu nhỏ
đến đâu cũng khó xâm nhập được vào trong chất siêu
dẫn vì nó bị triệt tiêu bởi dòng điện ‘lý tưởng’ nội
tại của siêu dẫn. Không những điện mà cả từ trường
cũng vậy. Một thỏi nam châm để gần một vật liệu siêu
dẫn bị bật ra xa, thông lượng từ trường bị trục xuất
một phần ra ngoài vật siêu dẫn, đó là hiệu ứng
Meissner. Chính hiệu ứng này là ngọn nguồn cho xe
lửa trong tương lai được ‘nâng‘ lên trên đường rầy,
không bị lực ma sát nên có vận tốc rất cao. Vật liệu
siêu dẫn ngăn chặn tầm truyền của trường điện từ, nó
là một hệ thống trong đó điện từ chỉ có thể tác động
trong một khoảng cách ngắn, khác với bản chất tự tại
của sóng điện từ có thể truyền đi vô hạn. Vậy
photon, cái boson chuẩn, khi chuyển
động trong vật liệu siêu dẫn bị cản trở bởi một bức
tường chắn gì đó và nó tác động giống như có một
khối lượng khác 0.
Bức tường chắn đó trong lý
thuyết siêu dẫn của J. Bardeen, L. N. Cooper, J. R.
Schrieffer (BCS), giải Nobel 1972, chính là thể
ngưng tụ của muôn ngàn cặp Cooper, cặp liên kết hai
electron có spin up↑
spin down↓ đối nghịch. Mỗi cặp
mang điện tích –2e nhưng vì có spin 0 nên
theo thống kê Bose-Einstein những cặp này có thể hoà
đồng chung sống trong cùng một trạng thái đông tụ.
Mỗi electron cô đơn và có cá tính mạnh mẽ, nhưng kỳ
lạ thay ở một hoàn cảnh đặc biệt nào đó (nhiệt độ
thấp) khi kết bạn, mỗi cặp tuy rất mảnh mai nhưng
khi tụ họp quá đông đảo lại vận hành như một dòng
chảy thuần khiết đều đặn của muôn ngàn điện tích và
trở nên siêu dẫn[2]
Cái đông tụ Bose của nguyên tử
Helium 4 coi như boson cũng là ngọn nguồn của hiện
tượng siêu lỏng, luồng thể lỏng bơi ngược trên thành
ống nhỏ li ti. Vật liệu sắt từ (ferromagnetic) là
thí dụ thứ ba trong đó hàng tỷ electron có spin cùng
hướng về một phía duy nhất do tác động của một từ
trường ngoài. Vật liệu sắt từ như vậy không có đối
xứng tuyệt đối, mặc dầu định luật cơ bản về sắt từ
của Heisenberg hoàn toàn đối xứng trong sự phân phối
spin, không có một chiều spin nào giữ ưu thế.
Trong ngôn từ của giới chuyên ngành,
phương trình cơ bản mang một phép đối xứng, trong
khi nghiệm số của phương trình ấy lại không có cái
đối xứng nguyên thủy, ta gọi hệ thống đó tự phát
bẻ gẫy đối xứng (SBS). Đối xứng không bị vi phạm
trong toàn thể, nó chỉ bị che khuất đi ở một điểm
cục bộ nào trong trạng thái cơ bản (năng lượng cực
tiểu) của vật chất, hay chân không. Siêu dẫn điện
từ, Siêu lỏng và Từ sắt là ba thí dụ của SBS.
1d-Thuyết Điện-Yếu.
Tính chất SBS là ngọn nguồn cho phép thống nhất được
hai lực điện từ và yếu, chúng tưởng như khác biệt mà
thực ra cùng chia sẻ phép đối xứng chuẩn. Xin nhắc
lại, để thống nhất lực yếu với lực điện từ, ta sử
dụng đối xứng chuẩn. Vậy ban đầu cũng như photon của
điện từ, boson chuẩn W, sứ giả của lực yếu, không có
khối lượng. Sau đó ta cần một trường boson mới lạ
nào đó (trường Higgs) để ngăn chắn tác động của lực
yếu và mang khối lượng cho W. Trường Higgs tựa như
ngưng tụ của cặp Cooper trong điện từ. Cặp Cooper có
spin 0 liên kết hai electron trong siêu dẫn điện từ
được thay thế trong lực yếu bởi hạt Higgs cũng có
spin 0. Trường Higgs tràn ngập chân không lượng tử,
chân không này là trạng thái của vũ trụ thuở Nổ Lớn
(Big Bang) có năng lượng cực tiểu nhưng vô hạn.
Không những mang khối lượng cho hạt W, hạt Higgs còn
mang khối lượng cho tất cả các hạt khác như quark,
lepton. Chính cái cơ cấu SBS phổ biến và chi phối
nhiều ngành vật lý do Nambu, khi suy ngẫm về thuyết
siêu dẫn nói trên, đã đề xướng ra và Peter Higgs áp
dụng thành công trong vật lý hạt cơ bản để thống
nhất hai lực điện từ và yếu. Giải Nobel 2008 tặng
thưởng Nambu đã sáng tạo cái cơ chế SBS này. Ngoài
ra Nambu cũng đã đưa ra ra ý niệm theo đó thành phần
cơ bản cấu tạo nên proton, neutron (quark theo ngôn
từ hiện đại) phải mang ba đặc tính lượng tử. Ba đặc
tính này ngày nay ta gọi là sắc tích (color), và lực
mạnh gắn kết quark trong hạt nhân gọi là sắc động
lực học lượng tử (QCD). Cũng là người đã gợi ra ý
niệm dây để thay thế hạt nhiều năm trước thuyết Siêu
dây thời thượng ngày nay, Nambu quả là một nhà vật
lý lý thuyết có cái nhìn xa, uyên thâm, đa ngành và
sâu sắc, làm tiên phong sáng tạo nhiều ý tưởng mới.
2-
Ba họ, Sáu Quark và vi phạm đối
xứng CP
Sự hiện hữu của phản vật chất là hệ
quả sâu sắc nhất của bản giao hưởng tuyệt vời giữa
hai thuyết Tương đối hẹp và Cơ học lượng tử do Paul
Dirac, một thiên tài của thế kỷ tầm cỡ Newton và
Einstein, chứng minh năm 1928 khi ông chưa đến 26
tuổi. Máy chụp hình nổi PET (Positron Emission
Tomography) dùng trong y học ngày nay là một ứng
dụng trực tiếp của positron, phản hạt của electron.
Khi positron hòa tụ với electron sẵn có trong cơ thể
thì cặp positron-electron biến thành tia bức xạ cực
kỳ tinh vi để rọi sáng chi tiết trong não bộ.
Như đề cập ở phần 1a, lực hạt nhân
yếu vi phạm đối xứng vật chất-phản vật chất
(đối xứng CP), một ngạc nhiên lớn vì ba lực
cơ bản khác (hấp dẫn, điện từ và mạnh) đều tuyệt đối
tuân thủ phép đối xứng này. Tương tác yếu của hạt và
của phản hạt khác nhau. J. Cronin và V. Fitch cùng
hai cộng sự viên khám phá ra năm 1964 sự vi phạm
CP, và hai vị đã nhận giải Nobel 1980. Những năm
đầu 1970, trong bối cảnh của vật lý hạt thời ấy với
Mô hình Chuẩn đang ở buổi sơ khai, hai nhà vật lý
trẻ Makoto Kobayashi và Toshihide Maskawa tiền phong
đi tìm hiểu cơ chế nào cho phép sự vi phạm này. Hai
ông, hoàn toàn do suy luận và tính toán, sau nhiều
cuộc vật lộn với toán học ‘ứng dụng’, đã tìm ra năm
1973 là ít nhất phải có sáu quark (đúng ra là phải
có ba ‘họ‘, mỗi họ có hai quark)[3].
mới vi phạm được đối xứng CP. Thật là cả một
phiêu lưu vô cùng kinh ngạc vì vào thời buổi ấy
quark hãy còn là một giả thuyết, một đề tài tế nhị,
nhiều người bài bác kể cả những cây đại thụ, và ngay
cả nếu chấp nhận giả thuyết quark thì lúc ấy người ta
chỉ biết có ba quark thôi: quark trên (up),
dưới (down) và kỳ (strange). Thực
nghiệm liên tiếp chứng tỏ sau đó sự chính xác của cơ
chế vi phạm CP mà Kobayashi và Maskawa (KM)
đề xướng. Năm 1974 quark duyên (charm) bắt
đầu lộ diện, năm 1977 với quark đáy (bottom)
và 1994 với quark đỉnh (top). Khám phá của
Kobayashi và Maskawa góp phần quan trọng cho sự hình
thành của Mô hình Chuẩn hạt cơ bản, một lý thuyết mô
tả chính xác tuyệt vời ba lực ‘phi hấp dẫn’ cơ bản
của thiên nhiên, nó đã vượt qua tất cả các thử thách
thực nghiệm một cách vẻ vang. Kỳ diệu thay cái duyên
không cân đối của thế giới lượng tử mà giải Nobel
2008 vinh tặng
Kobayashi và Maskawa!!
|
|
|
Yoichiro Nambu
- Universtity of Chicago |
Makato Kobayashi
- KEK |
Toshihide Maskawa
-
|
Phạm
Xuân Yêm 07/10/2008
[3] Kobayashi
và Maskawa rất khác biệt về cá tính và
phương pháp tìm tòi khoa học, Kobayashi
thiên về thực nghiệm và trực giác, Maskawa
thiên về toán học, hai vị bổ túc cho nhau.
Họ chứng minh là nếu có N họ, mỗi họ có hai
quark, thì sự vi phạm CP chỉ xảy ta
nếu (N–1)(N–2) > 0. Ba họ, sáu quark là ở
đó.
Đã đăng trên Diễn Đàn Forum, có
bổ sung cho Vietsciences |