Giải Nobel vật lý 2008

Vietsciences- Phạm Xuân Yêm            14/10/2008
 

Những bài cùng tác giả

Tìm hiểu cơ cấu hình thành vạn vật
Khởi động máy gia tốc hạt lớn nhất thế giới nhằm tìm hiểu sự hình thành của vũ trụ.

                                               

Sáng nay mồng 7 tháng Mười, giải Nobel 2008 vinh tặng ba nhà vật lý Nhật bản ngành lý thuyết hạt cơ bản, các giáo sư Yoichiro Nambu (1921) một ‘Nhật kiều’ ở Đại học Chicago, Makato Kobayashi (1944) thuộc Trung tâm Quốc gia Vật lý năng lượng cao ở Tsukuba và Toshihide Maskawa (1940) ở Đại học Kyoto. Cho những ai ở trong ngành, tin này không gây ngạc nhiên mà chỉ làm phấn khởi họ trên con đường học hỏi sáng tạo, nhất là máy gia tốc hạt đầu tầu thế giới LHC ở CERN vừa khởi động chưa đến tháng nay[1]. Chương trình ưu tiên số một của LHC là săn tìm hạt cơ bản Higgs, hạt tạo nên khối lượng cho vật chất. Ưu tiên số hai là câu hỏi đâu rồi phản vật chất trong hoàn vũ bao la. Cái thứ nhất liên quan mật thiết đến Nambu (công trình của Peter Higgs không thể tách rời khỏi sáng kiến của Nambu như Higgs xác nhận) và cái thứ hai đến Kobayashi và Maskawa. Tiên đoán của hai ông về sự hiện hữu tất yếu của hai quark top và bottom để giải thích sự bất đối xứng vật chất-phản vật chất trong Mô hình Chuẩn (Standard Model, xem phụ chú 1) đều được thực nghiệm kiểm chứng với độ chính xác đáng kinh ngạc. Người viết ước mong cùng bạn đọc tìm hiểu con đường đưa đến giải Nobel này, một trong những thành tựu tuyệt vời của vật lý lượng tử ở lãnh vực thuộc biên giới của tri thức nhân loại đang nóng bỏng.

 

1- Đối xứng

 

1a- Đối xứng P và CP.

Trong tiến trình khám phá các định luật khoa học, ít nhất là trong phạm vi hạt cơ bản, nhiều nhà vật lý lấy nguồn cảm hứng trong cái đẹp cân đối hài hoà của thiên nhiên để  quan sát, tìm tòi, suy luận, sáng tạo. Cái đẹp đó dĩ nhiên chủ quan trong nghệ thuật, văn chương, hội họa, âm nhạc, nhưng trong khoa học nó khách quan, định lượng và mang tên gọi đối xứng. Sự tìm kiếm những đối xứng (và sự vi phạm nó một cách tuần tự kiểm soát được) cũng như tìm kiếm những gì bất biến trong vật lý (dùng công cụ nhóm đối xứng trong toán học) là phương pháp chỉ đường phổ biến và hữu hiệu trong công cuộc khám phá. Đối xứng gương là một thí dụ. Bạn hình dung đối xứng đó như sau: tay phải (hay trái) của ta có hình trong gương hệt như tay trái (hay phải), và cái ta gọi là phía phải hay phía trái chỉ là một ước lệ giữa con người. Không có gì cho ta phân biệt được mọi hiện tượng ở ngoài gương và hình chiếu của hiện tượng đó trong gương, sự hoán chuyển không gian x x hay đối xứng gương P (Parity) không làm chúng thay đổi, chúng bất biến. Một sáng nắng ấm mùa thu ngả đông với cây đỏ lá vàng của Hà Nội thời xưa, tháp rùa mái cong cổ kính soi hình xuống nước trong vắt pha lê của hồ gươm phẳng lặng, tháp và bóng trong hồ là biểu hiện của đối xứng gương toàn vẹn.

 Chen Ning YangTsung-Dao Lee

Chen Ning Yang (1922, Institute for Advanced Study Princeton, NJ, USA) và Tsung-Dao Lee (1926, Columbia University New York, NY, USA) (Nobel.se)

Hai nhà vật lý Trung Quốc ở  Mỹ T. D. Lee và C. N.Yang (giải Nobel 1957) khám phá ra là lực hạt nhân yếu vi phạm tối đa cái đối xứng gương P này, trong đó spin đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Spin của electron, của neutrino đều hoàn toàn quay về phía trái mà không quay về phía phải.

Một thí dụ khác là đối xứng vật chất-phản vật chất hay đối xứng CP, theo đó các định luật vận hành của vật và phản vật phải giống hệt nhau. Chữ C trong CP chỉ định điện tích (charge) vì  hoán chuyển vật chất-phản vật chất là trước tiên thay đổi dấu của điện tích –e +e. Trong bốn tương tác cơ bản thì ba lực hấp dẫn, điện từ và hạt nhân mạnh đều tuân thủ phép đối xứng P CP, chỉ lực hạt nhân yếu mới vi phạm chúng, tối đa với đối xứng P, đôi chút với đối xứng CP, tương tác yếu của hạt và của phản hạt khác nhau ở mực độ vừa phải.

 

1b- Đối xứng chuẩn.

Nhưng có một đối xứng không hề bị vi phạm, nó ngự trị tuyệt đối trong Sắc Động Lực và Điện-Yếu, một đối xứng đặc trưng của vật lý lượng tử, nó mang tên đối xứng chuẩn (gauge symmetry). Chính cái đối xứng này đã mở ra một chân trời mới lạ và là gốc nguồn cho sự thành công kỳ diệu của Mô hình Chuẩn. Ai trong chúng ta khi làm quen với cơ học lượng tử đều biết rằng bình phương của hàm số sóng |Ψ(x)|2  cho ta xác suất xảy ra đối với một đại lượng nào đó. Ta thấy ngay hoán chuyển chuẩn Ψ(x) Ψ(x) Exp[iα(x)] với bất kỳ hàm thực α(x) nào không làm thay đổi |Ψ(x)|2, cũng vậy nó không làm thay đổi các định luật của Mô hình Chuẩn, các đại lượng vật lý phải bất biến với hoán chuyển chuẩn. Chính vì vậy mà đối xứng chuẩn chi phối toàn diện sự vận hành của các tương tác mạnhđiện-yếu. Cụ thể ta mường tượng đối xứng này như sau: điện thế của trái đất là một triệu volt và hai cực điện trong nhà là 1000000 volt và 1000220 volt, nhưng máy của chúng ta chạy với 220 volt không hề trục trặc mặc dầu hàng triệu volt điện thế của quả đất. Cũng như α(x) là bất kỳ hàm gì, có muôn ngàn điện thế khác nhau ở mọi nơi trong hoàn vũ, nhưng định luật chi phối sự vận hành của chúng phải điều hòa ra sao để cho ta một trường điện từ duy nhất. Máy của chúng ta mang lên các thiên thể xa xăm không bị chi phối bởi điện thế tuỳ tiện lớn hay nhỏ trên đó, điện tích –e của electron trong máy bao giờ cũng bất biến, ở đây hay ở đó, lực điện từ chi phối máy của chúng ta cũng là lực điện từ trên các thiên thể. Đó là ý nghĩa vật lý của đối xứng chuẩn. Phương trình Maxwell của tương tác điện-từ tuân thủ phép đối xứng chuẩn, đối xứng này trở thành nguyên lý chủ trì cho sự phát triển kỳ diệu của Điện động học lượng tử, những tính toán trong lý  thuyết này đưa ra nhiều tiên đoán được thực nghiệm kiểm định tới độ chính xác cao hơn một phần tỷ (momen từ của electron là một thí dụ). Đặc điểm của đối xứng chuẩn là nó đòi hỏi các boson - làm trung gian sứ giả cho fermion tương tác với nhau qua trao đổi các boson này - phải không có khối lượng. Hạt quang tử photon trong điện động học lượng tử (QED) cũng như gluon trong sắc động lực học lượng tử (QCD) là thí dụ của boson không có khối lượng. Ta gọi chúng là boson chuẩn (gauge bosons).

Ngay khi mới phác họa ra lý thuyết để diễn tả lực yếu khoảng những năm đầu 1950, nhiều nhà vật lý trong đó có Fermi, Feynman, Gell-Mann, Yang, Lee, Glashow đã tinh ý nhận ra là giữa hai tương tác điện từ và yếu có nhiu cấu trúc và tính chất giống nhau, vậy hầu như là chuyện đương nhiên nếu ta sử dụng phương pháp rất hiệu lực của đối xứng chuẩn trong điện từ để khám phá những định luật vận hành của lực yếu. Nhưng khốn thay, cái trở ngại là boson chuẩn W (làm sứ giả cho tương tác này) lại có khối lượng rất lớn chứ chẳng bằng 0 như photon trong điện từ. Tại sao vậy? Vì lực yếu chỉ tác động trong hạt nhân nguyên tử ở kích thước vi mô, trong khi lực điện từ trải rộng khắp hoàn vũ, mà tầm truyền R của lực lại tỷ lệ nghịch với khối lượng M của boson làm trung gian cho lực truyền đi, một hệ quả của nguyên lý bất định Heisenberg theo đó RM ~ h. Biết tầm truyền R của lực yếu, ta suy ra là boson W phải có khoảng hai trăm ngàn lần khối lượng của electron, như vậy tương tác yếu không có đối xứng chuẩn. Ôi biết bao thất vọng nếu phương pháp diệu kỳ của đối xứng chuẩn - nguyên nhân cho sự thành công tuyệt vời của lý thuyết điện từ - xem ra chẳng sao áp dụng được cho tương tác yếu.

Nhưng một chuyện ‘thần kỳ’ đã xẩy ra để làm cho lực yếu cũng có đối xứng chuẩn như điện từ, chuyện khởi đầu từ hiện tượng siêu dẫn của ngành vật lý chất rắn ở kích thước trung mô xa lạ với hạt cơ bản tung hoành trong thế giới vi mô. Trong vật lý, cũng như trong nhiều môn khác, có một số nhỏ nhà khoa học kiến thức xuyên ngành uyên thâm, nhìn rộng ra ngoài cái chuyên của mình, tìm hiểu những gì phổ quát để mang lại cho ngành mình một luồng gió mới. Nhà vật lý Nhật bản Yoichiro Nambu ở đại học Chicago là một trong số đó. Chuyên gia về hạt sơ đẳng nhưng ông cũng lưu tâm và có cái nhìn bao quát về vật lý siêu dẫn khác lạ với hạt, ông nhận thấy có cái gì liên kết hai ngành - cấu trúc toán học thì rất giống nhau nhưng vật lý thì lại khác biệt - và phác họa ra ý tưởng làm sao cho lực yếu cũng mang đối xứng chuẩn. Nhưng chính Peter Higgs một nhà nghiên cứu ‘bình thường’ của xứ Scotland làm việc tại một đại học ‘nhỏ’ Newcastle upon Tyne đã tìm ra một kịch bản nhất quán dẫn đến sự thống nhất Điện-Yếu của Glashow, Salam, Weinberg với giải Nobel 1979.

 

1c- Siêu dẫn điện từ.

Hiện tượng siêu dẫn của vật liệu ở nhiệt độ thấp là một đặc trưng của vật lý lượng tử, dòng điện truyền qua một dây siêu dẫn có thể tồn tại hàng tỷ năm trên lý thuyết, ước lượng khoảng vài trăm ngàn năm bởi đo lường, nó không có điện trở. Một điện trường dẫu nhỏ đến đâu cũng khó xâm nhập được vào trong chất siêu dẫn vì nó bị triệt tiêu bởi dòng điện ‘lý tưởng’ nội tại của siêu dẫn. Không những điện mà cả từ trường cũng vậy. Một thỏi nam châm để gần một vật liệu siêu dẫn bị bật ra xa, thông lượng từ trường bị trục xuất một phần ra ngoài vật siêu dẫn, đó là hiệu ứng Meissner. Chính hiệu ứng này là ngọn nguồn cho xe lửa trong tương lai được ‘nâng‘ lên trên đường rầy, không bị lực ma sát nên có vận tốc rất cao. Vật liệu siêu dẫn ngăn chặn tầm truyền của trường điện từ, nó là một hệ thống trong đó điện từ chỉ có thể tác động trong một khoảng cách ngắn, khác với bản chất tự tại của sóng điện từ có thể truyền đi vô hạn. Vậy photon, cái boson chuẩn, khi chuyển động trong vật liệu siêu dẫn bị cản trở bởi một bức tường chắn gì đó và nó tác động giống như có một khối lượng khác 0. Bức tường chắn đó trong lý thuyết siêu dẫn của J. Bardeen, L. N. Cooper, J. R. Schrieffer (BCS), giải Nobel 1972, chính là thể ngưng tụ của muôn ngàn cặp Cooper, cặp liên kết hai electron có spin upspin down đối nghịch. Mỗi cặp mang điện tích –2e nhưng vì có spin 0 nên theo thống kê Bose-Einstein những cặp này có thể hoà đồng chung sống trong cùng một trạng thái đông tụ. Mỗi electron cô đơn và có cá tính mạnh mẽ, nhưng kỳ lạ thay ở một hoàn cảnh đặc biệt nào đó (nhiệt độ thấp) khi kết bạn, mỗi cặp tuy rất mảnh mai nhưng khi tụ họp quá đông đảo lại vận hành như một dòng chảy thuần khiết đều đặn của muôn ngàn điện tích và trở nên siêu dẫn[2]

Cái đông tụ Bose của nguyên tử Helium 4 coi như boson cũng là ngọn nguồn của hiện tượng siêu lỏng, luồng thể lỏng bơi ngược trên thành ống nhỏ li ti. Vật liệu sắt từ (ferromagnetic) là thí dụ thứ ba trong đó hàng tỷ electron có spin cùng hướng về một phía duy nhất do tác động của một từ trường ngoài. Vật liệu sắt từ như vậy không có đối xứng tuyệt đối, mặc dầu định luật cơ bản về sắt từ của Heisenberg hoàn toàn đối xứng trong sự phân phối spin, không có một chiều spin nào giữ ưu thế.

Trong ngôn từ của giới chuyên ngành, phương trình cơ bản mang một phép đối xứng, trong khi nghiệm số của phương trình ấy lại không có cái đối xứng nguyên thủy, ta gọi hệ thống đó tự phát bẻ gẫy đối xứng (SBS). Đối xứng không bị vi phạm trong toàn thể, nó chỉ bị che khuất đi ở một điểm cục bộ nào trong trạng thái cơ bản (năng lượng cực tiểu) của vật chất, hay chân không. Siêu dẫn điện từ, Siêu lỏng và Từ sắt là ba thí dụ của SBS.

1d-Thuyết Điện-Yếu.

Tính chất SBS là ngọn nguồn cho phép thống nhất được hai lực điện từ và yếu, chúng tưởng như khác biệt mà thực ra cùng chia sẻ phép đối xứng chuẩn. Xin nhắc lại, để thống nhất lực yếu với lực điện từ, ta sử dụng đối xứng chuẩn. Vậy ban đầu cũng như photon của điện từ, boson chuẩn W, sứ giả của lực yếu, không có khối lượng. Sau đó ta cần một trường boson mới lạ nào đó (trường Higgs) để ngăn chắn tác động của lực yếu và mang khối lượng cho W. Trường Higgs tựa như ngưng tụ của cặp Cooper trong điện từ. Cặp Cooper có spin 0 liên kết hai electron trong siêu dẫn điện từ được thay thế trong lực yếu bởi hạt Higgs cũng có spin 0. Trường Higgs tràn ngập chân không lượng tử, chân không này là trạng thái của vũ trụ thuở Nổ Lớn (Big Bang) có năng lượng cực tiểu nhưng vô hạn. Không những mang khối lượng cho hạt W, hạt Higgs còn mang khối lượng cho tất cả các hạt khác như quark, lepton. Chính cái cơ cấu SBS phổ biến và chi phối nhiều ngành vật lý do Nambu, khi suy ngẫm về thuyết siêu dẫn nói trên, đã đề xướng ra và Peter Higgs áp dụng thành công trong vật lý hạt cơ bản để thống nhất hai lực điện từ và yếu. Giải Nobel 2008 tặng thưởng Nambu đã sáng tạo cái cơ chế SBS này. Ngoài ra Nambu cũng đã đưa ra ra ý niệm theo đó thành phần cơ bản cấu tạo nên proton, neutron (quark theo ngôn từ hiện đại) phải mang ba đặc tính lượng tử. Ba đặc tính này ngày nay ta gọi là sắc tích (color), và lực mạnh gắn kết quark trong hạt nhân gọi là sắc động lực học lượng tử (QCD). Cũng là người đã gợi ra ý niệm dây để thay thế hạt nhiều năm trước thuyết Siêu dây thời thượng ngày nay, Nambu quả là một nhà vật lý lý thuyết có cái nhìn xa, uyên thâm, đa ngành và sâu sắc, làm tiên phong sáng tạo nhiều ý tưởng mới.

 

 2- Ba họ, Sáu Quark và vi phạm đối xứng CP

Sự hiện hữu của phản vật chất là hệ quả sâu sắc nhất của bản giao hưởng tuyệt vời giữa hai thuyết Tương đối hẹp và Cơ học lượng tử do Paul Dirac, một thiên tài của thế kỷ tầm cỡ Newton và Einstein, chứng minh năm 1928 khi ông chưa đến 26 tuổi. Máy chụp hình nổi PET (Positron Emission Tomography) dùng trong y học ngày nay là một ứng dụng trực tiếp của positron, phản hạt của electron. Khi positron hòa tụ với electron sẵn có trong cơ thể thì cặp positron-electron biến thành tia bức xạ cực kỳ tinh vi để rọi sáng chi tiết trong não bộ.

Như đề cập ở phần 1a, lực hạt nhân yếu vi phạm đối xứng vật chất-phản vật chất (đối xứng CP), một ngạc nhiên lớn vì ba lực cơ bản khác (hấp dẫn, điện từ và mạnh) đều tuyệt đối tuân thủ phép đối xứng này. Tương tác yếu của hạt và của phản hạt khác nhau. J. Cronin và V. Fitch cùng hai cộng sự viên khám phá ra năm 1964 sự vi phạm CP, và hai vị đã nhận giải Nobel 1980. Những năm đầu 1970, trong bối cảnh của vật lý hạt thời ấy với Mô hình Chuẩn đang ở buổi sơ khai, hai nhà vật lý trẻ Makoto Kobayashi và Toshihide Maskawa tiền phong đi tìm hiểu cơ chế nào cho phép sự vi phạm này. Hai ông, hoàn toàn do suy luận và tính toán, sau nhiều cuộc vật lộn với toán học ‘ứng dụng’, đã tìm ra năm 1973 là ít nhất phải có sáu quark (đúng ra là phải có ba ‘họ‘, mỗi họ có hai quark)[3]. mới vi phạm được đối  xứng CP. Thật là cả một phiêu lưu vô cùng kinh ngạc vì vào thời buổi ấy quark hãy còn là một giả thuyết, một đề tài tế nhị, nhiều người bài bác kể cả những cây đại thụ, và ngay cả nếu chấp nhận giả thuyết quark thì lúc ấy người ta chỉ biết có ba quark thôi: quark trên (up), dưới (down) và kỳ (strange). Thực nghiệm liên tiếp chứng tỏ sau đó sự chính xác của cơ chế vi phạm CP mà Kobayashi và Maskawa (KM) đề xướng. Năm 1974 quark duyên (charm) bắt đầu lộ diện, năm 1977 với quark đáy (bottom) và 1994 với quark đỉnh (top). Khám phá của Kobayashi và Maskawa góp phần quan trọng cho sự hình thành của Mô hình Chuẩn hạt cơ bản, một lý thuyết mô tả chính xác tuyệt vời ba lực ‘phi hấp dẫn’ cơ bản của thiên nhiên, nó đã vượt qua tất cả các thử thách thực nghiệm một cách vẻ vang. Kỳ diệu thay cái duyên không cân đối của thế giới lượng tử mà giải Nobel 2008 vinh tặng Kobayashi và Maskawa!!

 

Yoichiro Nambu - Universtity of Chicago

Makato Kobayashi - KEK

Toshihide Maskawa -

                                                                                                  Phạm Xuân Yêm  07/10/2008


 

[3] Kobayashi và Maskawa rất khác biệt về cá tính và phương pháp tìm tòi khoa học, Kobayashi thiên về thực nghiệm và trực giác, Maskawa thiên về toán học, hai vị bổ túc cho nhau. Họ chứng minh là nếu có N họ, mỗi họ có hai quark, thì sự vi phạm CP chỉ xảy ta nếu  (N–1)(N–2) > 0. Ba họ, sáu quark là ở đó.

Đã đăng trên Diễn Đàn Forum, có bổ sung cho Vietsciences

©  http://vietsciences.org http://vietsciences.free.fr-Phạm Xuân Yêm