Những bài cùng tác giả
---sách vở và đời thường---
Tại cuộc hội thảo về công-tội của triều Nguyễn dưới
tên gọi rất hùng hồn ”Hội thảo quốc gia” về "Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam
từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX" đã diễn ra tại Thanh
Hóa ngày 18/10/2008, nhiều nhà sử học Việt nam đã
mạnh dạn “sờ” vào những “vùng cấm” khi nêu ý kiến có
phần đi ngược lại với những quan điểm phê phán vua
quan triều Nguyễn đã hình thành từ sau ngày cách
mạng tháng Tám thành công, nhất là nêu lên những
quan điểm phê phán bao biện đã từng tồn tại trong
hơn nửa thế kỷ qua. GS Phan Huy Lê trong phát biểu khai mạc hội thảo đã
nêu lên một thực tế không mấy xa lạ rằng “Áp dụng lý
thuyết hình thái kinh tế xã hội và đấu tranh giai
cấp một cách giáo điều đã dẫn đến những hệ quả đưa
ra những phân tích và đánh giá lịch sử thiếu khách
quan, không phù hợp với thực tế lịch sử. Không riêng
các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn mà những nhân
vật lịch sử liên quan, và rộng ra cả vương triều Mạc
trước đó, đều bị đánh giá theo quan điểm chưa được
khách quan, công bằng như vậy”(1). Qua đó, chúng ta
thấy rằng yếu tố “khách quan”, “công bằng” và “trung
thực” trong thái độ nghiên cứu sự kiện lịch sử rất
cần thiết, nếu không thì kết quả nghiên cứu sẽ rơi
vào ngõ cụt vì một thiên kiến hay tư duy chính trị
áp đặt, bóp méo theo ý đồ có sẵn. Điều nầy có thể
thấy rất rõ trong những công trình nghiên cứu lịch
sử cận hiện đại như trường hợp Nguyễn Ánh và Nhà Tây
sơn, triều đại Nhà Nguyễn kéo dài từ thế kỷ XVI-XIX
hay vai trò của các bậc sĩ phu từng hợp tác với thực
dân Pháp trong thời kỳ nầy như Phan Thanh Giản,
Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh…trước
đây. Phải thừa nhận rằng những cuộc hội thảo như
trên là điều cần làm để tránh những lối mòn trong
phương pháp luận kinh điển(hay truyền thống) bị ràng
buộc bởi hệ tư tưởng máy móc không còn phù hợp với
xã hội hiện đại, mang tính giáo điều như GS Phan Huy
Lê nhận định. Dù vâỵ, nội hàm của những tính từ:
“khách quan”, “trung thực” hay “công bằng” để chỉ
thái độ trong việc tiếp cận với những đề tài “chưa
được làm sáng tỏ” trong sử học là gì thì hầu như
chưa được đề cập một cách cụ thể. Nói khác đi, muốn
đạt được điều nầy thì cần phải theo những chuẩn mực
khoa học như thế nào, không thể dừng lại ở phạm trù
“định tính” mãi được, cần xác lập một phương pháp
luận nghiên cứu sử học cụ thể, đặt ra hàng loạt vấn
đề trong khi tiếp cận đối tượng nghiên cứu như
phương pháp khai thác và thao tác, kiểm định nguồn
tư liệu, sử dụng thông tin nhiều chiều để đối chiếu
thực hư, so sánh phản diện, thậm chỉ phản biện với
những nhận xét, quan điểm đã hình thành từ trước,
không kể việc khái quát hóa hay mô tả những bối cảnh
lịch sử, tác động qua lại của những diễn biến và
diễn tiến trong quá trình vận động của xã hội đương
thời thuộc phạm vi của đối tượng nghiên cứu. Muốn
được như vậy, thiết nghĩ môi trường nghiên cứu cần
được tôn trọng, tư duy và cơ chế cho nhà nghiên cứu
thoáng đạt, rộng mở, tự do trong học thuật mới tránh
được lối tư duy sáo mòn hay hẹp hòi mà chúng ta
thường thấy. Người ta thường thắc mắc rằng tại sao
các nhà “Việt Nam học” ở nước ngoài thường thành
công dễ dàng trong nghiên cứu lịch sử Việt nam với
nguồn tư liệu tham khảo đồ sộ, có bề dày và đi đến
những kết luận rất đáng tham khảo trong khi những
công trình nghiên cứu sử học trong nước mãi loay
hoay tìm lối ra trong suốt mấy mươi năm, ít có công
trình nào nổi bật mặc dù là sự kiện lịch sử nước nhà
! Những công trình nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ,
Trương Vĩnh Ký*, Phạm Quỳnh…hay các vị vua yêu nước
bị lưu đày như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy tân… không
kể những “công –tội” của triều Nguyễn vẫn chưa được
phổ cập trong sách giáo khoa cho thấy chúng ta chưa
vượt qua được những “hạn chế lịch sử”(barrière—rào
cản) đã có trước đây. Cao Tự Thanh nhận định“Việc
chối bỏ triều Nguyễn còn làm sử học Việt Nam hiện
nay chưa tổng kết được quá khứ dân tộc một cách đúng
đắn và toàn diện, mà tiêu biểu nhất có lẽ là việc
thờ ơ với cả cái phần lịch sử Việt Nam thời họ”(2).
Chính vì lẽ đó mà việc nghiên cứu-học tập trong khoa
sử học tại đại học hay môn sử ở nhà trường phổ thông
trở nên nhàm chán, không hào hứng và thậm chí là tạo
ra thói quen coi thường lịch sử dân tộc, không nhìn
ra được những gì gọi là “khách quan, trung thực,
công bằng”, chui vào ống đồng của định kiến một cách
đáng tiếc.Theo GS Tương Lai “một khi cái giả biến
thành cái thật, được đem rao giảng cho thế hệ trẻ
thì khác nào chất axít gậm nhấm tâm hồn họ. Sự thật
lịch sử bị vùi lấp, xuyên tạc bởi bất kỳ lý do gì
cũng làm giảm sút, nao núng lòng tin, lòng tự hào về
lịch sử dân tộc của lớp trẻ - chất ximăng kết dính
những tâm hồn Việt Nam. Nhìn lại lịch sử triều
Nguyễn chính là cách Việt Nam nâng cao bản lĩnh dân
tộc” (3) Thật khó thay để định chuẩn của 3 tính từ “cảm tính
“ này khi mà mọi nghiên cứu bị soi rọi bởi những tấm
gương “chiếu yêu” vô hình và vô tình của “mặt trận
tư tưởng”, nhất là khi nó đụng chạm đến vấn đề nhạy
cảm đối với chế độ hiện hữu ! Ngay như một sự việc
đang xảy ra trong xã hội ngày nay như vấn nạn về
tham nhũng, tiêu cực, hối lộ, chạy chức quyền…vẫn
thường bị phủ nhận, chối quanh hay gần nhất là vấn
đề ô nhiễm môi trường do công ty Vedan gây ra từ 14
năm trước, biết bao nhiều bức xúc của người dân
trước những chứng cớ rành rành…các cơ quan điều tra,
chức năng cũng đã nhảy vào để phanh phui sự thật…thế
mà cuối cùng sau khi nộp phạt hành chính, Vedan vẫn
được tiếp tục thải nước độc hại ra sông, lệnh cẩm xả
nước của Bộ Tài nguyên-Môi trường có cũng như không
khi bị tỉnh Đồng Nai từ chối thực hiện(!). Kẻ phạm
tội thì nhởn nhơ trong khi cơ quan chức năng nhà
nước thì đùn đẩy nhau về thủ tục pháp lý “xem ai đủ
quyền hơn ai” ! Liệu các nhà sử học hiện đại phải có thái độ “khách
quan”, “công bằng” và “trung thực” như thế nào khi
nêu lên sự kiện nầy , đành nhắm mắt xem như “sự việc
đã rồi”, hay bao biện theo kiểu phải “lo cho 3.000
công nhân thất nghiệp” nếu cấm Vedan tiếp tục sản
xuất như ai đó đã phát biểu ! Thật chán ngán cho
thái độ “cầu an”(?!) hay vì một lý do nào khác ? Thế
mà đòi hỏi “khách quan, trung thực” hay “công bằng”
cho triều Nguyễn xa xưa kia thì e rằng với đôi mắt
nầy, nhà sử học sẽ hướng người học sử sang một
lối-mòn-ăn-theo kiểu mới !..Phê phán” HÌNH THỨC để
chứng tỏ ta đây “cấp tiến” hòng che đậy cái “ khó
hiểu” kia là điều không mới mẻ gì tuy nhiên phải nói
là nó có thể lừa gạt được một số người không am hiểu
nhưng hiện ra rất rõ trong mắt những nhà nghiên cứu
chuyên sâu và tâm huyết. Nhà sử học Dương Trung Quốc
cho rằng “sự đánh giá công bằng, khách quan của đời
sống đương đại sẽ làm sáng tỏ vai trò của các chúa
Nguyễn, chúa Trịnh và các vị vua triều Nguyễn vốn
một thời mang nặng mặc cảm gắn liền với những biến
động tiêu cực như chia cắt Đàng Trong-Đàng Ngoài,
thù địch và tiêu diệt “cách mạng” Tây Sơn, đàn áp
khởi nghiã nông dân và cuối cùng là “cõng rắn cắn gà
nhà”, bán nước rồi làm tay sai cho thực dân đô hộ.
Bối cảnh chính trị của cuộc cách mạng “phản đế- phản
phong” cùng lập trường đấu tranh giai cấp và cải tạo
xã hội chủ nghĩa đã kéo dài sự đánh giá một sắc màu
tiêu cực về nhà Nguyễn”(4). Chính xác ! Nhưng tiếc
thay trong “đời sống đương đại” mà nhà sử học nói
không bao hàm những sự kiện của xã hội đang xảy ra
hôm nay ? Không thể kêu gọi “khách quan”, “trung
thực”, “công bằng”…trên sách vở, lý thuyết suông
trong khi với những sự kiện trong đời thường thì lại
nhắm mắt làm ngơ, trốn chạy thậm chí cố tình nhìn
lệch tâm điểm theo ý đồ chính trị hoặc lợi ích riêng
tư ! Lại càng không thể “cả vú lập miệng em” dù tự
xưng là gì, đao to búa lớn đến mấy thì sự thật lịch
sử hôm nay hay trước kia vẫn là sự thật của muôn đời
cho dù che đậy hay bóp méo, se sua dưới bất cứ một
dạng thức nào và tinh quái tột cùng đi nữa ! Vedan cố dùng mọi thủ đoạn hòng tìm cách chạy tội,
mua chuộc, dấu nhẹm đến thế nào thì hàng triệu mét
khối nước thải, khói bụi công nghiệp từ những phân
xưởng của Vedan trong hơn 14 năm qua đã gây nhiễm
bẩn môi trường và môi sinh nghiêm trọng, dòng sông
Thị Vải trở thành ao tù dẫy chết vẫn là những bằng
chứng khách quan nếu biết nhìn một cách trung thực.
Chắc chắn hai chữ “vedan” sẽ đi vào lịch sử phát
triển của Việt nam như một minh chứng về sự cẩu thả
cố ý và dễ dãi của người đương quyền trong quá trình
công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Sự “công bằng” của lịch sử chính là ở đây vậy. Hồng Lê Thọ 8/11/2008 (*) trong bài viết “Kỷ niệm lần giỗ thứ 110 (ngày
1/9/2008) của Trương Vĩnh Ký - Một trí thức
buồn”(Vietsciences free. fr) vào tháng 7/2008, tác
giả đã đề cập đến phương pháp luận của các nhà
nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký ngày trước…
Ghi chú:
(1) Phan Huy Lê “Khách quan-Trung thực-Công bằng về chúa Nguyễn, triều Nguyễn”
(http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/tinhtrungthuclichsu.htm) (2) Cao Tự Thanh”Triều Nguyễn và lịch sử của chúng
ta” http://blog.360.yahoo.com/blog-0lIwRp4yeqlSlANVd_hNqS7b?p=2607 (3) Tương Lai ”Tính trung thực lịch sử”
(http://vietsciences.free.fr/vietnam/bienkhao-binhluan/khachquantrungthuccongbang.htm) (4) Dương Trung Quốc: “Chuyển đổi cơ bản hay là…” http://www.vietnamnet.vn/thuhanoi/2008/10/810337/
|