Gần đây có nhiều sách vở và báo chí nói đến
sự hội tụ giữa "truyền thống thần bí phương
Đông" và Khoa Học (KH) hiện đại. Đặc biệt
gần gũi chúng ta có chủ đề hay được thảo
luận là "Phật Giáo và Khoa Học". Do đó loạt
bài này nhằm trả lời câu hỏi khoa học luận
1 : Phật Giáo (PG), và nói rộng
ra, văn hoá truyền thống Việt Nam, với hai
nguồn ảnh hưởng Ấn Độ và Trung Hoa, có ích
gì cho sự phát triển KH không ?
Để tránh rơi vào những lập luận quá dễ dãi,
xin được trở lại một số căn bản. Vì vậy, sau
khi đặt vấn đề, bài này sẽ so sánh hai sự
tiếp cận hiểu biết, tiếp cận KH và tiếp cận
triết học (TH) ; bài thứ nhì sẽ trình bày
những khía cạnh của tư tưởng TH Ấn Độ và
Trung Quốc có liên quan đến nhận thức luận.
Như thế để chuẩn bị cho bài cuối, trình bày
những nghịch lý của cơ học lượng tử (CHLT)
và những khó khăn khi diễn giải CHLT ; nhận
định và phê phán luận đề nói rằng, vài chục
năm trước đây, một số nhà bác học lớn đã
tiếp cận TH "Đông phương", và lấy đó làm cảm
hứng cho việc diễn giải CHLT.
Bạn đọc sẽ
không thấy ở đây một chút gì về
"thần bí phương Đông"
2,
vì theo người viết bài này, nếu tư tưởng
truyền thống của Ấn Độ và Trung Hoa có giúp
gì được cho việc nắm bắt những khám phá KH
mới, thì chỉ có thể là ở những suy tư TH
trừu tượng và duy lý nhất
3,
chứ không ở những khía cạnh thần bí, mà nói
cho cùng đâu cũng đầy rẫy. Muốn đi kiếm thần
bí thì giữa "phương Đông" và Âu châu Trung
cổ, chưa chắc ai đã hơn ai, có điều là thần
bí Âu châu trung cổ thì bán không ai mua.
1. Các truyền thống tư
tưởng và nguồn gốc KH
Trước hết phải nói rằng nguồn gốc của
KH là
khá phức tạp, có ảnh hưởng của tư tưởng, có
điều kiện kinh tế xã hội, và cũng cần một
một trình độ kỹ thuật "tiền KH" nhất định.
Những yếu tố này hội đủ thì nảy sinh ra KH
hiện đại ở phương Tây, có thể nói từ thời
Galilée. Tác giả đã viết về đề tài này trong
một bài báo Diễn Đàn
4,
dưới đây xin tóm tắt và bổ sung vài ý.
Nếu chỉ nhìn những ảnh hưởng tinh thần trong
việc hình thành KH hiện đại thì có thể nói
ngay đến Aristote, với phương pháp suy luận
lôgích và công trình đồ sộ nghiên cứu thế
giới tự nhiên. Chỉ khi con người ý thức rằng
thế giới tự nhiên có các quy luật nhân quả
nhất định thì mới có việc khảo sát tự nhiên
để tìm ra các quy luật ấy, ý thức này tiềm
ẩn trong nhiều triết gia Hy Lạp trước
Aristote nhưng không ai phát biểu rõ.
 |
 |
Thánh Thomas d'Aquin |
Averroès |
Có lẽ khái niệm hiển ngôn hiện đại về
quy
luật của tự nhiên đến từ
Averroès
(1126-1198), nhà bác học lớn của Hồi giáo,
được hậu thế tôn xưng như "người bình giải
(Aristote)". Ông đi trước một thế kỷ và để
lại ảnh hưởng lớn đến
Thomas d'Aquin
(1228-1274)
5 trong việc
thống nhất tư tưởng Aristote và niềm tin về
Thượng Đế duy nhất : Tự Nhiên là do Thượng
Đế sáng tạo, nên phải theo những quy luật do
Thượng Đế ấn định. Và cũng chính vì thế mà
chữ "loi" (luật) đã được dùng cả cho luật
pháp xã hội lẫn quy luật tự nhiên : đó đều
là những điều do một quyền uy tối cao thiết
lập. Đây là cơ sở để nhiều luận gia "dĩ Âu
vi trung" hiện đại cho rằng tư tưởng thiên
chúa giáo đóng vai trò quyết định cho sự nảy
sinh KH. Nhưng lịch sử cho thấy giáo hội đã
chỉ làm việc "rửa tội" cho
Aristote,
khi đến
lúc phải chấp nhận học hỏi KH của ông (và
nền văn hoá Hy Lạp nói chung) ; dưới áp lực
vừa của các nhà tu trí thức, vừa của những
đòi hỏi do (và cho) tiến bộ kinh tế, kỹ
thuật, quân sự, thời tiền Phục Hưng ; với sự
nghi ngại thường trực như ta đã biết.
Thực chất của động cơ tư tưởng trong
KH là ý
thức về một trật tự bao quát và nhất thống
trong thế giới tự nhiên ; ý thức này tiềm ẩn
ở nhiều nơi trong thế giới cổ đại, nhưng là
điều kiện cần mà không đủ để nảy sinh KH. Nó
được
Platon và Aristote
6
quan niệm như một nguyên lý tối hậu vận hành
vũ trụ, đứng ngoài và lạnh lùng với con
người, chứ không phải như Thượng Đế có nhân
tính, vừa sáng thế vừa cứu rỗi, của tôn giáo
độc thần. Thời cổ Hy Lạp chữ "thần" (dieux)
của tôn giáo bao giờ cũng là số nhiều ; đáng
tiếc là cùng một chữ "dieu", số ít, đã được
dùng để chỉ "thượng đế" của tôn giáo độc
thần (không hề có tại Hy Lạp thủa ấy), và
"thượng đế" rất trừu tượng của các triết
gia, sự lẫn lộn này lại càng làm tăng ảo
tưởng "thiên chúa giáo là động cơ cho
KH"
vừa đề cập.
Ngoài ra
không thể quên những ý tưởng duy
vật sơ khai nhưng sâu sắc của trường phái
Leucippe và Démocrite. Nhưng không phải chỉ
có những người Hy Lạp, còn Ấn Độ với hệ số
thập phân và con số không, thật là vĩ đại ;
còn toán học của người Ả rập, thừa hưởng từ
cả Hy Lạp lẫn Ấn Độ để phát triển thành đại
số học. Không phải ngẫu nhiên mà các chữ
algèbre và
algorithme có nguồn
gốc Ả rập. Chưa kể đến thiên văn học và y
học Ả rập... cũng rất cao. Đóng góp của tư
tưởng Trung Quốc vào sự nảy sinh KH hiện đại
có lẽ mờ nhạt nhất ; ngược lại, việc châu Âu
trung cổ đã học hỏi được nhiều kỹ thuật
Trung Quốc, cao hơn hẳn, chắc chắn có ảnh
hưởng gián tiếp lớn đến sự phát triển KH,
cũng như vai trò trung gian ngôn ngữ của
những người Do thái không quê hương.
Tóm lại, tinh thần
KH đã
thừa
hưởng
tinh tuý
của mọi
nền văn
minh
ngay từ
đầu, mặc
dù nó có
cái
"gien"
Hy Lạp,
và đã
bùng nổ
tại châu
Âu.
Nhưng dù
sao đi
nữa, sau
bốn thế
kỷ hoạt
động,
tinh
thần và
phương
pháp KH
7
hiện nay đã hoàn toàn độc lập với những
nguồn gốc của nó, kể cả với Aristote. Phải
khẳng định
không một chút mơ hồ là :
không
có cái gì gọi là KH "Tây phương" hay
KH
"Đông phương", KH là KH, không biên giới.
Với đội ngũ làm KH tràn ngập thế giới, hiện
nay đã hiển nhiên là khả năng của một nhà KH
không phụ thuộc vào việc anh/chị ta theo một
tôn giáo nào hay một triết luận đặc thù nào.
Trong hoạt động thực tiễn, nếu nhà KH có thể
có được trực giác phong phú do kinh nghiệm
và cả cái vốn văn hoá riêng của mình
8, thì bản thân nền KH, như là một
hệ thống lý thuyết và thực nghiệm, lại chỉ
tuân thủ cái lôgích nội tại của chính nó,
tôn giáo hay TH (TG&TH) không còn có ảnh
hưởng hữu cơ gì cho khám phá và sáng tạo KH.
Hệ thống KH rất khô khan hình thức, chính vì
thế mà nó phổ quát. Nhưng cũng có lẽ chính
vì thế mà xẩy ra sự li dị giữa hai môi
trường KH và nhân văn, hiện tượng đáng buồn
này của thế kỷ 20 vẫn được gọi là "vấn đề
hai văn hoá".
Nhưng nếu những điều nói trên đến nay còn
đúng thì tại sao chúng ta cần thảo luận ?
phải chăng chính vì KH đang bị khủng hoảng,
mà sự trợ giúp của những tư tưởng TG&TH
« Đông phương » là cần thiết ?
Dù sao thì, để suy nghĩ nghiêm chỉnh về vấn
đề trên, trước hết cần tìm hiểu chân thực về
cả hai cơ sở tư tưởng. Đó là KH và văn hoá
dân tộc nói chung, PG nói riêng, chứ không
phải "Đông phương" và "Tây phương". Tại sao
không nói Đông phương và Tây phương ?
khái
niệm "Đông phương" rất mơ hồ, đây là
khái
niệm... của người "Tây phương"
9
đặt ra trước tiên, trong quan niệm
dĩ Âu
vi trung của họ thì từ phía đông nước Hy
Lạp trở đi là « Đông phương », nghĩa là
không phải ta. Thế mà chỉ nói riêng
Trung Quốc và Ấn Độ, là hai nước ảnh hưởng
nhất đến VN truyền thống, thì đã khác nhau
một trời một vực.
Cơ bản và bao trùm hơn hơn vấn đề
"Đông
phương"
và KH là vấn đề "hai văn hoá" đã
đề cập ở một đoạn trên, sự hoà đồng giữa
tinh thần KH và tinh thần nhân văn đang là
yêu cầu cấp bách chung cho cả loài người.
Như thế việc các nhà bác học phát biểu về
triết lý là điều đáng mừng, khi những phát
biểu đó bao gồm sự học hỏi các truyền thống
nhân văn khác với truyền thống vốn có của
họ, thì còn đáng mừng hơn nữa
10.
Đứng trên cơ sở tư tưởng này để tìm hiểu cơ
sở tư tưởng kia là điều phải làm trong thời
đại trái đất đã chật như ngày nay. Nhưng
thật ra dùng chữ "đứng" là sai, không ai
"đứng" cả. Đó là một quá trình "đi", đi để
mở rộng học vấn bản thân, và khi tôi hiểu rõ
điều gì thì điều ấy đã nằm trong tư tưởng
(thường là không ai hoàn toàn giống ai) của
tôi rồi... "đi" như vậy dĩ nhiên rất
khó
khăn ; cần thận trọng, chặt chẽ, nghiêm túc
11. Chỉ với điều kiện đó thì từ
khung cảnh "hai văn hoá" này ta mới có thể
học được nhiều điều để trở lại tiếp cận vấn
đề hẹp hơn là văn hoá "Đông phương" và
KH.
2. Tiếp cận KH và tiếp cận TH
Nhiệm vụ tối quan trọng chung của cả xã hội
là xác định hướng phát triển và việc sử dụng
thành quả của KH, con dao sắc nhưng có lợi
hay có hại tuỳ người dùng, nói điều này đã
quá nhàm rồi, và lạc đề. Quan trọng cho chủ
đề của bài này chính là việc cần phân chia
rạch ròi các phạm vi hoạt động giữa KH tự
nhiên với tôn giáo hay/và TH hay/và kinh tế
- chính trị... (từ nay xin tạm gọi chung
khối hoạt động trí tuệ ngoài
KH tự nhiên đó,
là Xã Hội và Nhân Văn, XH-NV). Biên giới ở
đâu ? Sau nhiều thế kỷ ảo tưởng thì đến nay
đã rõ là KH không thể hướng dẫn cho việc tổ
chức xã hội, hay áp đặt những tiên đề về đạo
lý xã hội, như những nhà duy KH của các thế
kỷ 18-19 mơ mộng ; cũng như XH-NV không thể
hướng dẫn phương pháp nghiên cứu KH, hay áp
đặt những tiên đề vũ trụ quan cho KH, để sẽ
không tái diễn sự "lãnh đạo"
KH thảm hại của
chủ nghĩa Staline
12.
XH-NV không thể chống lại những kết luận đã
được kiểm chứng của KH về thế giới tự nhiên
(không gồm những ngoại suy có tính triết lý
của các
nhà KH
13, mấu
chốt là ở chỗ này) ; và KH không có gì để
nói về tình cảm, tâm linh và thẩm mỹ nơi con
người.
Trên đây là một số những vùng cấm kỵ giữa
hai văn hoá mà lịch sử đã vạch ra được, qua
nhiều kinh nghiệm cay đắng. Nhưng nếu chỉ có
những cấm kỵ đó thì sợ rằng XH-NV và KH ngày
lại càng xa nhau, theo kiểu : ngươi không
đụng đến ta thì ta cũng không đụng đến
ngươi, như nước sông và nước giếng. Tuy
nhiên, sự phân biệt rạch ròi là bước đầu để
hai văn hoá KH và XH-NV hoà đồng được với
nhau một cách đẹp đẽ, và sẽ là một bước
tiến, nếu chúng ta hiểu sâu hơn tại sao có
sự khác biệt đã đưa đến cái ranh giới ấy.
Vì những hoạt động xã hội và nhân văn, kể cả
tôn giáo hay chính trị, đều dựa trên một số
triết thuyết nền tảng, dưới đây xin so sánh
các hoạt động KH và hoạt động TH, với chữ TH
theo nghĩa rất rộng, bao gồm XH-NV như thế.
2.1 Ngôn ngữ TH là dị biệt, ngôn ngữ
KH là
đại đồng
Cả TH lẫn
KH đều là những hệ thống ngôn ngữ
và lý luận nhất quán (cohérent) và có nội
dung (significatif). Tuy nhiên, chúng khác
nhau ở chỗ các lý thuyết KH đều có chung một
ngôn ngữ nền tảng, đó là ngôn ngữ toán học
và luận lý học hình thức ; trong khi đó mỗi
hệ thống TH lại mang theo nó một hệ thống
ngôn ngữ và khái niệm riêng. Ngôn ngữ và
khái niệm của mỗi triết gia được xác định từ
cổ nhân, để làm khác cổ nhân. Chính do vừa
bị truyền thống văn hoá đè nặng lên ý nghĩa
từng câu chữ, vừa phải thoát khỏi quá khứ để
đề cập đến những vấn đề mới
14,
mà sự suy nghĩ phản tỉnh về ngôn ngữ (vừa là
công cụ trói buộc, vừa là công cụ giải
phóng) là một vấn đề TH lớn.
2.2. TH khởi đầu là bao trùm,
KH khởi đầu là
khu biệt
Một hệ thống TH hoàn chỉnh thường phải phát
biểu về mọi phạm trù của đời sống và tư
tưởng, mà có thể phân ra thành ba loại đối
tượng : tự nhiên, con người, và xã hội, cùng
với những quan hệ nhiều chiều giữa ba cực
đó. TH thường khởi đi từ những điều rất bao
trùm và căn bản (trong nghĩa những điều căn
bản lại nằm trong mọi đối tượng của tư
tưởng), chung cho mọi hình thái hiện hữu
hay/và vận động của sự vật. Chính vì thế mà
một vấn đề TH đầu tiên là
bản thể luận
(ontologie). Bản thể luận, nghĩa là bàn về
"thực tại tự nó" (réalité en soi), một câu
hỏi chỉ có thể đặt ra khi có tham vọng bao
trùm mọi hình thái của thực tại, để trả lời
bằng cách chỉ ra những điều chung nhất giữa
những hình thái đó.
Bản thể luận
không thể tách
khỏi bản thân
chữ "luận", tức là khảo sát tại sao và làm
thế nào con người có thể nhận thức và trao
đổi về bản thể ? thậm chí phải chăng đó là
một vấn đề giả ? không thể đặt nền tảng cho
cuộc sống... Tóm lại, một vấn đề căn bản nữa
của TH chính là
nhận thức luận, sánh
đôi (dual) với bản thể luận. Nó bao gồm tư
duy về ngôn ngữ như đã nói ở đoạn trên. Dĩ
nhiên, nhận thức luận thời hiện đại cũng
không thể
không tư duy về hình thái nhận
thức đặc biệt của KH, đó là bộ môn
khoa
học luận.
Khoa học luận chỉ bàn về một hình thái nhận
thức đặc biệt thôi, vì KH khiêm tốn hơn,
luôn luôn khu biệt các đối tượng khảo sát,
KH tự nhiên chỉ
khảo sát thiên nhiên, trong
đó mỗi lý thuyết và thực nghiệm KH cụ thể
lại chỉ nhắm vào một đối tượng hay một khía
cạnh nhất định nào đó thôi của thực tại. Khi
đã khu biệt và giới hạn phạm vi khảo sát,
thì nhiều lắm chỉ có thể đặt ra câu hỏi về
thực tại nghiệm sinh (réalité empirique),
còn có thể gọi là thế giới hiện tượng, (le
monde des phénomènes) ; tức là những hiện
tượng có tác động đến cảm nhận cụ thể của
con người, trực tiếp hay gián tiếp qua những
vật dụng khác nhau, mà thôi. Sự khu biệt này
rất cần thiết cho hai hoạt động KH là
mô hình hoá, và
định lượng.
Không thể định lượng nếu
không mô hình hoá,
nghĩa là thiết lập những thực thể, với những
định tính của chúng được xác
định trong một quan hệ tổng thể (cũng do đó
không thể mô hình hoá tất cả các mặt của
thực tại nghiệm sinh), mỗi định tính này lại
đi kèm một đơn vị định lượng
15
; không thể định lượng nếu không có đo
lường, mà mỗi lúc chỉ có thể đo lường một số
rất nhỏ các tham số, nói gì đến hàng tỷ tỷ
tỷ tham số vật chất có trong vũ trụ. KH là
có khu biệt. Không khu biệt được chưa phải
là KH.
2.3. Nhưng tiến trình phát triển
KH là đi
tới bao trùm
Một hệ thống TH đến sau có thể rất
khác lạ,
thậm chí mâu thuẫn với một hay nhiều hệ
thống có trước ; còn một lý thuyết KH đến
sau sẽ phải tìm cách bao trùm được các lý
thuyết đi trước nó, sau một thời gian. Lịch
sử KH cho thấy điều này cho tới nay là đúng,
nếu trên nguyên tắc không có gì bảo đảm
tương lai sẽ như thế mãi. Cuộc "khủng hoảng
CHLT" đang nổi cộm hiện nay chính vì nó chưa
bao trùm được quá khứ, điều này ta sẽ xét kỹ
hơn sau. Ở đây nhân tiện chỉ nhấn mạnh một
khía cạnh : tại thời điểm
khủng hoảng này
vấn đề ngôn ngữ cũng đặt ra, tương tự như
với TH, vì ngôn ngữ KH vẫn đang bị mâu thuẫn
"trói buộc và giải phóng". Đó là điều đã ám
ảnh
Bohr, và quan niệm của ông về CHLT chính
là kết quả của một sự cân nhắc rất kỹ lưỡng
về ngôn ngữ : vấn đề của ông, một "chưởng
môn", là làm sao để các nhà KH cộng tác được
với nhau trong việc khảo sát những hiện
tượng cực kỳ thách đố trí tuệ và thế giới
quan truyền thống.
2.4. Thao tác và diễn
giải trong KH
Quan hệ giữa
KH và thực tại nghiệm sinh là
một loại quan hệ đặc biệt không có trong TH.
Nếu chúng ta chấp nhận nói về ba thế giới
sau đây (
à la Popper, nhưng không
phải như Popper
16) : thế
giới bản thể, thế giới hiện tượng và thế
giới ngôn ngữ (khái niệm) của con người ;
thì : TH dùng thế giới ngôn ngữ để nói về
thế giới bản thể
17 và thế
giới hiện tượng, cái "nói về" này là một sự
liên tưởng giữa ngôn ngữ và thực tại, chỉ có
trong đầu người nói/viết và người nghe/đọc.
Trong khi đó KH dùng
thao tác mô hình hoá
(bằng ngôn ngữ toán và luận lý hình
thức) để mô tả thế giới hiện tượng, và
thao tác thực nghiệm để kết nối (kiểm
soát tính chính xác và tính đầy đủ của mô
hình) giữa thế giới mô hình với thế giới
hiện tượng. Và, trên nguyên tắc, không nói
gì về thế giới bản thể cả.
Ở trên viết "trên nguyên tắc", vì trên thực
tế nhà KH cũng khao khát có được những niềm
tin chắc chắn về bản chất của thế giới...
cho nên, trong quá khứ trước thế kỷ 20, nhà
KH nói chung xem "thế giới
khách quan" và
thế giới hiện tượng là một, là có thật, hiểu
được và chế ngự được. Còn hiện nay, sau
những khủng hoảng có tính nền tảng của toán
học và vật lý học, đại đa số vẫn coi thế
giới hiện tượng là cái rất gần, nếu không là
đồng nhất, với thế giới bản thể, hiểu được
một cách hạn chế qua liên tưởng với mô hình.
Và tuy mô hình là sản phẩm của trí tuệ con
người, niềm tin của nhà KH vẫn là : thế giới
bản thể là cái gì hiện hữu độc lập với ý
thức con người. Ở đây có điều bí ẩn :
Điều không thể hiểu được là tại sao thế giới
này lại hiểu được (Einstein). Cho nên,
mặc dù kêu trời là không thể "hiểu" được
CHLT, người ta vẫn muốn "hiểu", chứ
không
thể chỉ bằng lòng với các thao tác rất hiệu
quả của nó. Nhà toán học René Thom đã nói :
"tiên đoán không phải là giải thích". Câu
này nhấn mạnh nhiệm vụ
diễn giải
(interprétation) các lý thuyết KH của văn
hoá giáo dục, chuyện mà một số nhà KH lớn
như
Einstein, Feynman... làm rất nghiêm túc.
Như thế ta đã gặp vai trò nước đôi của mô
hình KH : mô hình phải "thao tác được",
nhưng cũng lại phải "hiểu" đuợc. Thao tác
được, tức là mô hình phải có định lượng đi
kèm định tính, có các quy luật liên hệ định
lượng giữa các định tính, xác định được bằng
thực nghiệm. Còn "hiểu" ? cảm giác "hiểu" là
một trạng thái tâm lý không thể xác minh, nó
nằm ngoài lý luận. Có lẽ người ta chỉ có thể
mô tả nó như là sự bằng lòng với diễn giải.
Và có thể định nghĩa diễn giải như việc mô
tả sự thay đổi từ thế giới quan cũ đến thế
giới quan mới, thích hợp với một tập hợp
khái niệm mới ; qua những hình ảnh quen
thuộc thiết lập được bằng ngôn ngữ của thế
giới quan cũ. Kể cả việc trong sự diễn giải
ấy rất nhiều khi phải nói "
nhưng thật ra
không phải thế, mà... "
18.
Với thời gian, các rào cản tâm lý do sự
"hiểu" cũ lập nên (mà nói cho cùng cũng chỉ
là các giáo điều, thí dụ như vũ trụ quan của
Ptolémé...) sẽ biến mất trong thế hệ trẻ
cùng với những dạy dỗ sai lầm.
Nếu
KH chỉ là "hiểu" thì luận cứ này có mùi
tương đối luận kiểu "hậu hiện đại", nhưng
không phải thế, vì ngoài vế "hiểu" còn vế
"thao tác đo lường" nữa.
2.5. Đo lường
Nếu vấn
đề bản
thể là
một vấn
đề cơ
bản của
TH, thì
vấn đề
đo lường
(hiểu
theo
nghĩa
rộng
nhất,
gồm cả
quan
sát) là
một vấn
đề cơ
bản của
KH
lý thuyết và thực nghiệm.
Đo lường, trong nghĩa thao tác nối liền thực
tại kinh nghiệm và mô hình, như nói trên,
thường có hai công dụng : một là kiểm chứng
một hiện tượng cụ thể đã được lý thuyết tiên
đoán ; và hai là phát hiện một hiện tượng
mới, cần được giải thích qua nghiên cứu mô
hình. Khi đo lường và lý thuyết đã ăn khớp
với nhau thì đó là nguồn gốc của tiến bộ kỹ
thuật, một hiệu ứng mới có thể được ứng dụng
trong việc sáng tạo một sản phẩm KH kỹ thuật
mới. Có thể nói trong sản phẩm mới đó một bộ
phận sẽ "đo lường" một hay nhiều bộ phận
khác, theo nghĩa những tương tác giữa các bộ
phận này là sự trực tiếp lặp lại những thí
nghiệm đã được thiết lập giữa đối tượng thí
nghiệm và việc đo lường kết quả. Các đầu đọc
băng từ đĩa từ chẳng hạn, đều thực sự là các
máy đo từ trường ; kính hiển vi lượng tử áp
dụng hiệu ứng đường hầm... là một cái máy đo
hiệu ứng đường hầm (effet tunnel). Cái màn
huỳnh quang trong TV cũng là một máy đo
lường góc bắn của điện tử... « Quên »
khía
cạnh này là sai lầm một thời của nhà bác học
lớn Wigner, mà ta sẽ bàn đến sau.
*
Tóm lại,
đã
KH là có định lượng
19, tuy không chỉ có
thế, dĩ nhiên. Một lý thuyết KH, dù bao quát
cả vũ trụ, vẫn khác một triết thuyết ở chỗ
lý thuyết KH cho phép khu biệt những sự vật,
những hiện tượng... đo lường được. Thuyết
tương đối hay thuyết lượng tử (hay một
thuyết nào đó trong tương lai kết hợp được
chúng) đều mô tả thực tại nghiệm sinh một
cách rất bao trùm, không gì trong tự nhiên
thoát khỏi tầm hoạt động của nó. Một lý
thuyết như thế có màu sắc của một bản thể
luận ; nhưng nó vẫn có định lượng, có nghĩa
nó mang theo những quy luật kiểm chứng được
bằng thực nghiệm.
Quên điều này thì
không phân biệt được đâu
là những diễn giải (interprétation), ức đoán
(conjecture, phát biểu một định lý hay quy
luật mà chưa chứng minh), dự phóng
(spéculation, khi ấy chỉ có mô tả định tính
một cách mơ hồ vì chưa khám phá được các quy
luật định lượng), hay ngoại suy TH
(extrapolation philosophique, những nhận
định bản thể luận ngoài KH nhưng bao trùm
các kết quả KH) của nhà KH
20,
mà nhà KH có quyền phát biểu như bất cứ ai,
nhưng cũng không có thẩm quyền hơn bất cứ ai
; và đâu là những công trình lý thuyết và
thực nghiệm của chính họ. Và quên điều này
thì cũng dễ tán nhảm về những trực giác,
nhiều khi rất đẹp và sâu sắc, của tiền nhân,
thí dụ như về âm dương, ngũ hành, nhân quả,
vân vân ; mà nói cho cùng thì vẫn chỉ là
những tư duy ở giai đoạn "tiền KH" mà thôi.
Diễn Đàn Forum số 154, 09.2005
1 Khoa học luận : philosophie des sciences,
đồng nghĩa với épistémologie trong
tiếng Pháp, philosophy of science
trong tiếng Anh. Còn epistemology
trong tiếng Anh lại là nhận thức luận,
màtiếng Pháp là philosophie des
connaissances, sát với từ nguyên hơn và
ý nghĩa rộng hơn khoa học luận.
2
Thí dụ như trong cuốn "The Tao of physics"
của Fritjof Capra... một thành công thương
mại vì nó vừa thoả mãn mặc cảm tự ty của
"phương Đông" trước KH, vừa thoả mãn tính
thích cái lạ lẫm (exotique) của "phương Tây"
về "thần bí phương Đông", ngoài ra
không có
gì đáng nói đến ngoài ảo giác kép của tác
giả : lấy cái "thần bí phương Đông" để diễn
giải một cái nhìn cũng thần bí về CHLT.
3
Duy lý không đồng nghĩa với duy vật, có
nhiều chủ nghĩa duy lý, mà mẫu số chung là
tin tưởng nơi lý trí con người và không mâu
thuẫn trong diễn ngôn, tuy các điểm khởi đầu
có thể rất khác nhau.
4
Khoa học, Kỹ thuật và Văn hoá, Diễn Đàn số
37, 01.1995
5
Mặc dù Thomas d'Aquin bảo thủ hơn và chống
lại Averroès rất mạnh ở một điểm cơ bản :
nhà bác học Ả Rập cho rằng nên tách rời niềm
tin và lý trí, còn Thomas d'Aquin cho rằng
niềm tin và lý trí là một thể thống nhất.
Averroès cuối cùng bị Hồi giáo chính thống
lên án, bị lưu đày khoảng 1 năm rưỡi, cho
đến khi gần chết mới được tha về Marakech.
Các trước tác của ông (y học, luật học và
TH) được người do thái dịch sang tiếng
Latinh, từ đó được học hỏi trong giới Do
Thái giáo và Thiên Chúa giáo, còn thế giới
Hồi giáo thì lại quên lãng, cùng với sự
thoái hoá của họ không lâu sau đó !
6
Điểm khác biệt lớn là Platon cho rằng có một
vị thần xây dựng trần thế và cho nó một linh
hồn – thần này là Démiurge, ông không
dùng chữ "dieu" (Théos) như Aristote – còn
Aristote cho rằng vũ trụ luôn luôn có đó, vô
thuỷ vô chung. Thần (Dieu) của Aristote,
cũng như linh hồn trần thế của Platon, là
nguyên lý vận hành tối hậu của vũ trụ.
7
Đây chỉ xin nói về KH tự nhiên, KH xã hội dĩ
nhiên phức tạp hơn, nhà KH Xã hội thường
chịu ảnh hưởng một triết thuyết nhất định.
8
Trực giác và quy nạp là cực kỳ quan trọng
trong khám phá, phát minh... nhưng sự chặt
chẽ KH đòi hỏi chỉ có tiên đề và diễn dịch,
tức là phải "giết cha" ! phải loại bỏ hoàn
toàn phần trực giác và lý luận kiểu tương
tự, quy nạp... trong diễn ngôn KH chính
thống.
9
Để trong dấu nháy, vì cái nhìn giản lược về
"Đông phương" chỉ có trong các học giả của
họ trước đây hơn nửa thế kỷ. Đáng tiếc là
nhiều học giả Việt Nam cũng dùng thuật ngữ
"Đông phương" trong các trước tác của mình
về văn hoá Ấn Độ - Trung Quốc - Việt Nam.
Nói về bản thân mình mà lại mượn một thuật
ngữ rất mơ hồ đã lạc hậu của " phương Tây "
, tại sao thế ? Thế thì xếp Nhật Bản, Triều
Tiên, Trung Á, Trung cận Đông, vào
« phương » nào ?
10
Các bác học lớn đầu thế kỷ 20 như Einstein,
Bohr, de Broglie, Schrödinger, Heisenberg...
đều sâu sắc về TH Âu châu, nhưng về Ấn Độ và
Trung Quốc thì còn tuỳ.
11
Vì thế khi đọc một nhà KH nói về TH, hay khi
đọc một triết gia nói về KH... ta nên nhớ
khi ấy tiên thiên, a priori, họ không
có thẩm quyền hơn ai, và tin họ hay không là
trách nhiệm của mình.
12
Vậy không có nghĩa chủ nghĩa Staline lãnh
đạo nhân văn khá hơn, dĩ nhiên ! Mỗi lần
nghe tán dương nhà văn hay nhà giáo dục như
những "kỹ sư tâm hồn", là tôi nổi da gà. Ôi
! tại sao có thể đem tâm hồn còn người so
sánh với một cái máy ? nghĩ như thế chỉ có
thể dẫn đến hiện tượng "học tập, cải tạo"...
còn bi thảm hơn nhà tù đơn thuần. "Sửa chữa"
tâm hồn con người ta cũng dễ như sửa cái máy
cày ư !!! lạy trời cho tôi không bao giờ gặp
một "kỹ sư tâm hồn".
13
Dĩ nhiên nhà KH cũng cần đến TG&TH như mọi
người, kể cả để tự an ủi trước một số bế tắc
của họ trong lĩnh vực nghề nghiệp. Và ngược
lại, tinh thần KH đích thực, rốt ráo và
trung thực trong lý thuyết và thực nghiệm,
đồng thời khiêm tốn trước thiên nhiên... lại
có ảnh hưởng gián tiếp rất quan trọng trên
đạo lý xã hội.
14
Ít ra là của thời đại, không cấm cản có
những vấn đề mới phát hiện, mà đã có từ muôn
thủa.
15
Thí dụ một vật thể bất kỳ trong mô hình của
cơ học cổ điển có những định tính như toạ
độ, khối lượng... đi liền với những định
tính này là các đơn vị định lượng như mét,
kilogram... dùng để định lượng hoá một vật
thể cụ thể nào đó bằng cách đo lường, tức là
gán cho mỗi định tính này một con số, như 3
mét, 5 kilogramme.
16
Popper chia ra thế giới vật chất, thế giới
nghiệm sinh chủ quan và thế giới văn hoá.
Bài này nói về ba thế giới : bản thể, nghiệm
sinh khách quan (hay ít ra liên chủ quan),
và ngôn ngữ - khái niệm ; và không loại trừ
những thế giới khác như tâm linh... tuy
không nói tới.
17
Dù để phủ nhận rốt ráo là "không có bản
thể", thì vẫn cần đến khái niệm bản thể.
18
Như thế luôn luôn dài dòng và không chính
xác bằng ngôn ngữ mới của lý thuyết mới, do
đó khi người ta dần dần vận dụng quen thuộc
ngôn ngữ mới thì sự diễn giải bằng ngôn ngữ
cũ trở nên không cần thiết. Một thế hệ mới
đã trưởng thành. Thí dụ : ngày xưa để hiểu
nguyên lý quán tính trong cơ học Newton
người ta phải giải thích : khi nói theo
Aristote ...muốn cho vật thể chuyển động
thì cần dùng lực, con ngựa phải kéo thì cái
xe mới đi... thì đúng ở đâu và sai ở
đâu.
19
Cần hiểu "định lượng" theo nghĩa rộng : định
lượng không phải chỉ có các con số. Sắp xếp
hiện tượng theo một mô hình cấu trúc hình
thức, như xếp loại thực vật theo dạng cây
của Linné, cũng là "định lượng"... Thêm nữa,
định lượng chỉ có nghĩa khi nó là định lượng
của một định tính, nghĩa là một phẩm chất
nhất định của thực thể, định nghĩa được
trong một lý thuyết khoa học.
20
Thí dụ như Bohm, mà cơ sở tư tưởng ban đầu
là chủ nghĩa hiện thực "kiên quyết và thuần
tuý" (Bohm theo thuyết de Broglie, cho rằng
hạt lượng tử và sóng luôn luôn đồng hiện
hữu). Sẽ phát triển trường hợp rất lý thú
này.