Lần trước đã trình bày cái nhìn tổng thể về
quan hệ giữa văn hoá truyền thống và khoa
học, đặt trong bối cảnh rộng hơn của quan hệ
giữa văn hoá « nhân văn » và văn hoá « khoa
học » (KH tự nhiên); và đã có vài nhận định
về hai hình thức tiếp cận tri thức, sự tiếp
cận bao trùm của triết học và sự tiếp cận
khu biệt, định lượng, của khoa học.
Tiếp tục thế nào đây ? Dĩ nhiên tác giả
không thể ngông cuồng bàn luận rộng hơn về
« triết Đông » và « triết Tây ». Từ đầu đã
xin giới hạn phạm vi của chủ đề vào khoa học
luận, và nếu có nói ra ngoài thì cũng chỉ để
xác định khung cảnh mà thôi. Vậy tiếp đây sẽ
tìm hiểu và so sánh Đông/Tây trong chừng mực
có liên hệ đến chủ đề đó. « Đông » ở đây xin
hiểu là Trung Quốc/ Ấn Độ/ Phật giáo, tuỳ
văn cảnh. Tuy nhiên như thế cũng sẽ quá dài
cho một số báo. Vì vậy bài này, sau khi nêu
ra vài khởi điểm « kinh điển » trong cái
nhìn so sánh, để nói tại sao người viết đã
không khởi đầu như thế ; xin tiếp tục vài
điều căn bản của cái nhận thức luận « Tây
học » trước. Rồi sẽ đứng trên nhận thức luận
đó để nhìn về cái « Ta học » trong số sau.
Như thế chỉ vì nếu người viết bài này còn
miễn cưỡng được gọi là « Tây học » thì về
văn hoá truyền thống phải hổ thẹn mà nói là
«một chỗ đất cắm dùi» cũng không có. Tuyệt
đối không có khả năng khởi đi từ vị thế của
Lão Trang, hay Khổng, hay Phật... để nhìn và
đánh giá khoa học hiện đại.
3. Một số phân biệt "Đông" / "Tây"
3.1. Chủ toàn / chủ biệt
Nói tới "phương Đông" không thể không nhắc
tới học giả Cao Xuân Huy, với "Tư
tưởng phương Đông, gợi những điểm nhìn
tham chiếu" 1, mà
một luận đề nổi bật là : tư tưởng phương
Đông thì chủ toàn, và tư tưởng phương
Tây thì chủ biệt. Vậy có gì quan hệ
với luận đề của người viết bài này như đã
phát biểu tiểu đoạn 2.2. kỳ trước : Triết
học khởi đầu là bao trùm, và KH khởi đầu là
khu biệt ? tiểu đoạn đó nói về đối tượng của
TH hay KH, còn học giả Cao Xuân Huy chủ yếu nói về
nhận thức luận : " Với phương thức chủ toàn,
tư tưởng xuất phát từ toàn thể để đi đến bộ
phận... toàn thể quyết định bộ phận...", và
" Phương thức chủ biệt của tư tưởng xuất
phát từ bộ phận để đi đến toàn thể... bộ
phận quyết định toàn thể... " (tr. 83-84
sđd). Vậy hai phát biểu này khác nhau nhưng
không độc lập, chúng có quan hệ trong chừng
mực mà việc xác định đối tượng nhận thức có
ảnh hưởng đến phương pháp nhận thức, và
ngược lại.
Theo thiển ý, một hệ thống tiên đề của toán
học hay của vật lý lý thuyết thì vừa không
chủ toàn vừa không chủ biệt. Không phải toàn
thể quyết định bộ phận, cũng không phải bộ
phận quyết định toàn thể, mà : bộ phận và
toàn thể đồng hiện hữu, các bộ phận "quyết
định" lẫn nhau, và tổng hợp các quan hệ đó
định nghĩa cùng một lúc vừa cái toàn thể,
vừa các bộ phận. Thí dụ cổ xưa mà hoàn hảo
nhất là hệ thống định đề xác lập không gian
và các thực thể hình học của Euclide. Thao
tác mô hình hoá là sáng tạo, và khai thác
bằng diễn dịch, một hệ thống tiên đề như
thế.
Mặt khác, thao tác thực nghiệm thì lại là
vừa chủ toàn, vừa chủ biệt. Chủ toàn, trong
nghĩa một hiện tượng KH riêng lẻ chỉ hiểu
được bằng toàn thể lý thuyết KH, một tiên
đoán lý thuyết về một hiện tượng cụ thể, để
rồi sẽ thí nghiệm xem đúng hay sai, là đi từ
toàn thể đến bộ phận bằng diễn dịch. Chủ
biệt, trong nghĩa một quan sát hay thí
nghiệm cụ thể đúng là chỉ thao tác trên một
bộ phận. Rút kết luận trên kết quả thí
nghiệm hay quan sát đó để chỉnh lý hay làm
giàu thêm mô hình bằng quy nạp, thì đúng là
đi từ bộ phận đến toàn thể.
Một khái niệm hẹp hơn khái niệm « chủ toàn »
là khái niệm « hợp trội » (emergence), theo
đó hợp trội là đặc tính có thể có cho
một hệ thống cụ thể, do sự phức tạp của
những quan hệ giữa các thành phần mà nảy
sinh. Nhưng chỉ có thể coi đó là những tính
chất riêng của cả hệ thống, không thể do
nghiên cứu những thành phần đơn lẻ mà biết
được. Khái niệm này xuất phát từ quan điểm
« toàn thể » của lý thuyết hệ thống, cả
« toàn thể » lẫn « chủ toàn » có lẽ đều có
thể dịch qua tiếng Anh « holism ». Nhưng
holism, trong nghĩa triết học, của Cao Xuân
Huy rất
khác với holism trong khoa học hệ thống, mà
bạn đọc có thể tìm hiểu rõ hơn trong một bài
viết của GS Phan Đình Diệu 2
Tiếp cận chủ toàn/chủ biệt là một cái nhìn
toàn cảnh sâu sắc, có thể thích đáng trong
việc khảo sát văn chương, đạo lý, v.v. giữa
các nền văn hoá. Nhưng có lẽ nó đã không còn
thích đáng cho chủ đề khoa học luận.
3.2 Triết và Đạo
"Triết học" là một tân từ do người Nhật tạo
ra, vào cuối thế kỷ 19. Theo từ điển thì
« triết » là « trí đức », vậy « triết học »
là để dịch nguyên ngữ philos-sophia : sự ái
mộ trí đức (sagesse). Trước đó, ở Trung quốc
và vùng văn hoá ảnh hưởng Trung quốc, chỉ có
« Đạo học » chứ không làm gì có « triết
học ». Còn Ấn độ thì sao ? Triết học Ấn độ
xoay quanh khái niệm « giải phóng khỏi khổ
đau », bằng nhiều « con đường » trong đó có
bát chánh đạo của đạo Phật. « Đạo » của
truyền thống Ấn độ, và « Đạo » của Khổng hay
Lão Trang có những khác biệt ; đó thật là
một vấn đề triết học lý thú. Ngoài ra hai
truyền thống này tương đồng ở sự nhấn mạnh
trước hết vào phương pháp xử thế ; với mình,
với xã hội và với thiên nhiên (xử thế với
thiên nhiên khác với tìm hiểu tự
nhiên) ; nếu nói là để đạt đến « trí
đức » cũng không sai, mặc dù mục đích tu đạo
thường được nêu ra cao hơn thế. Tuy nhiên so
với truyền thống « ái mộ » đơn thuần tại Hy
Lạp, thì « Đạo » khác nhiều.
Dù sao sự phân biệt giữa « triết » và
« đạo » đặt nặng trên phương diện đạo đức,
tức về quan hệ giữa con người với chính nó
và với xã hội. Như thế có lẽ đây cũng không
phải là điểm khởi đầu thích đáng cho chủ đề
khoa học luận và văn hoá truyền thống, trong
đó chủ điểm là tự nhiên và quan hệ giữa con
người với tự nhiên.
3.3 Nhận thức luận
Có lẽ không có một cách tiếp cận nào duy
nhất và thích đáng để sắp xếp hay so sánh
toàn bộ tư tưởng nhân loại. Do đó khi đã hạn
chế đối tượng là khoa học luận, một bộ phận
của nhận thức luận theo truyền thống triết
học Âu châu, thì có lẽ cách tiếp cận thích
hợp nhất với người viết bài này là dựa trên
nhận thức luận Âu châu, để vừa tìm hiểu tinh
thần khoa học, vừa tìm hiểu nhận thức luận
theo truyền thống Ấn Độ và Trung Quốc. Có
cần thêm chăng : những gì người viết học hỏi
được về hai truyền thống văn hoá ấy, là các
sách vở Anh/Mỹ và Pháp.. dễ hiểu là họ cũng
theo hướng nghiên cứu đó... đây là một sự
kiện tự nó nuôi dưỡng nó, không biết rằng
như thế là hay, hay dở. Chỉ biết trong tình
trạng học thuật chung và của riêng mình hiện
nay, người viết không có chọn lựa nào khác.
Những truyền thống văn hoá Ấn Độ và Trung
Quốc có gì khác trong phương pháp và thái độ
nhận thức ? Hy vọng rằng khi cọ sát với
truyền thống Âu châu ta có thể hiểu hơn
những phương pháp và thái độ nhận thức đó,
(và dĩ nhiên cả cái sánh đôi của nó là bản
thể luận). Để cuối cùng, sau khi đã tìm hiểu
những nghịch lý của cơ học lượng tử, mới có
thể trở về câu hỏi mấu chốt của loạt bài này
: nhận thức luận và bản thể luận của Khổng,
Lão Trang, và nhất là của Phật giáo, có thể
giúp ích gì cho việc nắm bắt khoa học hiện
đại.
Vậy xin trở lại những căn bản của nhận thức
luận, mà công cụ chủ yếu là logic học,
logic hình thức và logic biện chứng. Khoa
học tự nhiên, như là một diễn ngôn giả thiết
và diễn dịch (hypothético-déductif) chỉ dựa
trên luận lý hình thức. Nhưng trong quá khứ
điều này đã không rõ ràng như thế. Vì vậy
trong đoạn dưới đây, khi chủ yếu bàn về
logic hình thức (của Aristote), có tìm cách
đặt nó bên cạnh logic biện chứng, để hy
vọng có ích hơn khi tìm hiểu tư tưởng cổ
nhân, khi mà lý luận không hẳn đã rạch ròi
dễ hiểu.
4. Logíc hình thức và
logic biện chứng
Các nguyên tắc logic hình thức của Aristote
khẳng định những điều phải tuân thủ khi dùng
nó để nói về thế giới đời thường, với những
giới hạn của logic đó. Trong đời thường thì
một sự vật có thể vừa là A vừa là không A,
tuỳ sự vật được nhìn nhận dưới những khía
cạnh nào, hay/và ở thời điểm nào, và logic
hình thức không áp dụng được cho sự thống
nhất mâu thuẫn ấy. Logic hình thức là môn
học về sự diễn ngôn thuần lý, không ai có
thể diễn ngôn thuần lý về mọi chuyện trên
đời, tuy vậy hiển nhiên là diện áp dụng của
nó rất lớn, logic hình thức làm cơ sở cho
toàn bộ nền KH tự nhiên. Aristote đã nêu ra
ba nguyên tắc sau đây :
4.1. Nguyên tắc đồng nhất
:
A chính là A,
trong đó A là tên gọi 3
của một sự vật, một tập hợp sự vật bất kỳ,
một thuộc tính, hay một quan hệ bất kỳ nào
đó ; tên gọi này, ở những nơi khác nhau
trong thế giới diễn ngôn (univers du
discours), phải chỉ định cùng một thứ. Đây
giản dị là đòi hỏi sự nhất quán trong tính
đại diện của ngôn ngữ, nếu ở nơi này dùng
biểu tượng "A" 4 để nói về
một cái gì, thí dụ :
Socrate là người
(A = chuỗi ký tự "Socrate"), thì ở nơi khác
"A" vẫn nói về cái đó, thí dụ :
do đó Socrate sẽ chết
(A = chuỗi ký tự "Socrate", vẫn chỉ định một
con người ấy, tức cùng một thứ mà người nói
và người nghe nhận ra được (theo
Aristote nói, vì sự vật ấy có bản chất rõ
ràng).
Hiển nhiên không có nguyên tắc này thì loài
người không thể có ngôn ngữ hay tư tưởng gì
cả, vì không ai có thể hiểu ai.
Không thể đối lập "A chính là A" của
logic
hình thức, với "A và không A" của
logic
biện chứng. Hai mệnh đề đó nói về hai chuyện
hoàn toàn khác nhau : A trong mệnh đề đầu
vừa là cái biểu đạt (signifiant) vừa là cái
được biểu đạt (signifié) 5
, và A trong mệnh đề sau là, và chỉ có thể
là, một thuộc tính nào đó của một cái gì đó
được biểu đạt. Nguyên tắc đồng nhất không hề
khẳng định là vạn vật bất biến, nhưng logic
hình thức chỉ áp dụng được cho những sự vật
trong khung cảnh mà
bản chất
của chúng không thay đổi 6,
vì bản chất của một sự vật – đối tượng của
diễn ngôn – chính là cái làm cho người ta
nhận ra nó. Với logic biện chứng thì khi
bản chất của sự vật thay đổi, nó không còn
là nó nữa, mà vẫn là nó ; việc nhận diện sự
vật trong quá trình biến đổi và gián đoạn
này nằm ngoài logic hình thức.
4.2 Nguyên tắc không mâu thuẫn
:
"A
và không A không thể cùng đúng".
"A" ở đây là một mệnh đề, và mệnh đề đó
không thể vừa đúng vừa sai. Mệnh đề ít nhất
gồm chủ thể (sujet) và thuộc tính (attribut)
; Aristote viết :
không thể nào mà trong cùng một hoàn cảnh
một thuộc tính vừa thuộc về một chủ thể, vừa
không thuộc về nó.
Thí dụ : nếu mệnh đề "Socrate(chủ
thể)
còn sống
(thuộc tính)" đúng, thì mệnh đề "Socrate
không còn sống
" là sai, hoặc ngược lại. Để ý điều kiện
"trong cùng một hoàn cảnh", để thấy Aristote
rất minh bạch về giới hạn áp dụng của logic
hình thức, xác định bằng nguyên tắc đồng
nhất. Vì nếu tính đến những hoàn cảnh khác
nhau thì hiển nhiên hai mệnh đề của thí dụ
trên đều có lúc đúng. Logic học ngày nay đã
chứng minh là chỉ cần có một
mệnh đề vừa đúng vừa sai thì bất cứ mệnh đề
nào cũng vừa đúng vừa sai. Do đó nguyên tắc
không mâu thuẫn này phải được tuân thủ một
cách tuyệt đối phổ quát, cũng như nguyên tắc
đầu, nếu không thì không thể có ngôn ngữ.
Mặt khác, chính nguyên tắc thứ hai này và
mệnh đề logic biện chứng thường nghe "A và
không A cùng hiện hữu", hay "sự thống nhất
của hai mặt đối lập ", mới là có vẻ tuyệt
đối ngược nhau. Chúng đều nói về một thuộc
tính của một chủ thể, trong cùng một không
gian và thời gian. Giải quyết thế nào đây ?
chỉ có lối thoát nếu khái niệm phủ định hình
thức (négation formelle) khác với khái niệm
phủ định biện chứng (négation dialectique).
Và đúng như thế. Cái "không A" của phủ định
hình thức là bất kỳ một thuộc tính nào khác
với "A" trong cùng một phạm trù ; thí dụ qua
màu sắc thì : "không đen" luôn luôn có
nghĩa,
nó là sự có thể là
bất cứ màu (hay pha trộn) gì khác : xanh,
đỏ, tím, vàng 7 ....
Vậy phủ định biện chứng của màu đen là gì ?
không thể nói chung chung như thế được, câu
hỏi đó vô nghĩa. Logic biện chứng không
áp dụng cho diễn ngôn, nó áp dụng cho những
hoàn cảnh cụ thể (có thể rất bao quát,
như cả một thời đại...) với những sự vật mà
bản chất thay đổi (nói cách khác cần sử dụng
logic biện chứng trong tầm nhìn mà sự vật
thay đổi về bản chất, tuy rằng bản chất của
một sự vật là cái người ta nhiều khi không
dễ đồng ý với nhau). Vậy cái "không A" của
phủ định biện chứng là cái sẽ (hoặc đã) thay
thế cái "A" trong quá trình biến đổi của một
chủ thể nhất định, dưới một góc nhìn nhất
định theo đó "A" hiện (hoặc đã) là bản chất
của chủ thể ấy. Vậy, tuỳ văn cảnh mà người
ta vẫn phân biệt được hai loại phủ định,
hình thức hay biện chứng ; diễn ngôn biện
chứng vẫn có thể, và phải, tuân theo những
nguyên tắc của logic hình thức. Đó là những
nguyên tắc tối thiểu cho diễn ngôn.
Trên thực tế, tại một thời điểm nhất định,
trước một chủ thể nhất định mà mọi người
đồng ý là "A", mà nói rằng trong chủ thể đã
có sẵn cái "không A" rồi, tức "A và không A
đồng hiện hữu 8 ", thì ai
cũng đồng ý thôi, không có gì vĩnh cửu.
Nhưng nếu hỏi rằng cái "không A" là cái gì,
và bao giờ bản chất của sự vật trở thành cái
"không A" đó ? thì câu trả lời sẽ là một
nhận định... biện chứng, nó tuỳ thuộc việc
đánh giá toàn bộ biến chuyển của sự vật cụ
thể ấy và môi trường chung quanh nó, theo
hiểu biết của người nhận định. Đánh giá đó
không thể gọi là KH theo những tiêu chuẩn
của KH tự nhiên. Trên thực tế lịch sử có
những kinh nghiệm đánh giá đúng, có những
kinh nghiệm đánh giá sai, dù người nói ra có
là thiên tài.
Một điểm rất thực tế : trong logic hình
thức thì mệnh đề « không (không A) » chính
là mệnh đề A. Cái màu không phải màu không
đỏ thì chính là màu đỏ vậy. Trong logic
biện chứng dĩ nhiên phủ định của phủ định
của A không phải là A. Để ý rằng « A » ở đây
có thể là một khái niệm, mà cũng có thể là
một sự vật, biến chuyển trong một khung cảnh
luôn luôn thay đổi. Như trên đã nói, xác
định « phủ đinh biện chứng của A » cũng là
xác định một khung cảnh tư duy hay một môi
trường cụ thể khác trước, trong đó tư tưởng,
hay sự vật, hiện hữu và biến chuyển.
4.3. Nguyên tắc loại trừ trường hợp thứ ba
:
Và cuối cùng là "hoặc A hoặc không A",
A ở đây vẫn là một mệnh đề. Nói cách khác
"bất cứ mệnh đề nào (có nghĩa) cũng hoặc
đúng, hoặc sai". Aristote viết : "nếu một
thuộc tính là sai cho một chủ thể nào đó,
thì thuộc tính ngược lại phải đúng cho chủ
thể ấy". Thí dụ : Socrate hoặc là người,
hoặc Socrate không phải là người, một trong
hai mệnh đề phải đúng. Nguyên tắc thứ hai
nói trên không bắt buộc một mệnh đề là phải
hoặc đúng hoặc sai ; nguyên tắc thứ ba này
thêm vào sự bắt buộc ấy. Nhưng logic học
ngày nay cho thấy trong một thế giới diễn
ngôn phức tạp có vô tận chủ thể và thuộc
tính thì nguyên tắc này sai, có những mệnh
đề bất khả định (indécidable). Những mệnh đề
loại này không có trong một thế giới diễn
ngôn hữu hạn, tức là trong đại đa số trường
hợp.
Mặt khác nguyên tắc này thường bị vô tình
hay cố ý hiểu sai để nguỵ biện ; thí dụ : nó
không tốt, tức là nó xấu. Phủ định hình thức
của một thuộc tính không phải là một thuộc
tính ở đối cực (opposé), không tốt có thể là
xấu, mà cũng có thể là dửng dưng. Nhiều khi
không có tên gọi cho phủ định hình thức của
một khái niệm. Không đen là... không đen,
không phải luôn luôn là trắng. Nhưng
người ta thường bị lẫn lộn phủ định và đối
cực, hiểu một cách trực giác mơ hồ như
cái khác biệt nhất, và nó thường có tên ; có
thể cái nhìn phân cực này chịu ảnh hưởng của
hiện tượng lưỡng-tính phổ biến trên trái đất
: ngày/đêm, trời/trăng, đực/cái. Nếu loài
người có ba giới tính và trái đất có hai mặt
trăng thì sự nhầm lẫn này có lẽ sẽ bớt đi
nhiều.
4.4. Điều quan trọng trong tam đoạn luận
:
Là người ai cũng phải chết, Socrate là
người, vậy Socrate cũng sẽ phải chết.
Tam đoạn luận này chúng ta ai cũng đã học
qua. Thế nhưng có thực nó hoàn toàn chặt chẽ
không ? Hoàn toàn chặt chẽ, nếu chúng
ta chấp nhận hai mệnh đề đầu. Nhưng khi phân
tích kỹ chúng ta sẽ thấy có cái gì không đơn
giản. Sao nói được là người nào cũng phải
chết ? Đây là một sự quy nạp dựa trên quan
sát, cũng như biết sáng mai mặt trời sẽ lên
vì trong quá khứ đã luôn như thế. Sao nói
được Socrate là người ? Chỉ có thể nói thế
nếu chấp nhận có những đặc tính chủ yếu làm
cho một sinh vật thành con người, và có
những đặc tính thứ yếu làm thành một kẻ đặc
thù « Socrate ».
Những điều này cho thấy, lý luận hình thức
vừa hoàn toàn chặt chẽ, vừa hoàn toàn « vô
sinh » (stérile). Nó chỉ có ích với những
tiên đề quy nạp giàu ý nghĩa, và với điều
kiện là trường hợp cụ thể được khảo sát có
thể thích ứng với tiên đề đó qua một số đặc
tính hữu hạn, theo một quy luật nào đó. Cả
hai điều này nằm ngoài luận lý hình thức.
*
Tóm lại, logic hình thức và logic biện
chứng không hề đối lập, chúng nằm ở hai tầng
khác nhau của ngôn ngữ. Diễn ngôn biện chứng
là một hình thức lý luận rất phức tạp, với
đối tượng là những sự vật có thể thay đổi
bản chất, do đó lại càng cần vận dụng chính
xác logic hình thức. Ở đây đã nhấn mạnh
tính đơn giản, hiển nhiên, cơ bản, và phổ
quát, của logic hình thức, nhân đó có so
sánh với logic biện chứng, chứ không nói gì
thêm về nó, thí dụ như lượng biến thành
chất... mà đã nhiều nơi nói đến.
Diễn Đàn Forum số 155, 10.2005
1Di
cảo, nxb Văn Học ; 1995, Nguyễn Huệ Chi chủ
biên.
2
Phan Đình Diệu : Góp vài suy nghĩ để cùng tư
duy tiếp tục về đổi mới. Hội thảo hè 2005 ;
http://hoithao.viet-studies.org/
3
Logic của Aristote được đời sau gọi là
logic hình thức, vì ông chỉ bàn về hình
thức của các mệnh đề ; chính vì thế mà tầm
áp dụng của nó rất phổ quát.
4
Do đó, "A" trong mệnh đề của diễn ngôn về
logic này là cái biểu đạt của cái biểu đạt
; " A " có thể là bất cứ biểu tượng ngôn ngữ
nào, "Socrate", hay "anh", hay "tôi"... như
một chuỗi chữ cái ; cái được biểu đạt là con
người xương thịt tên Socrates, hay bản thân
anh, hay bản thân tôi. Việc dùng chữ "A" này
là từ văn bản gốc của Aristote, ông cũng
không phải người đầu tiên viết như vậy, nó
chứng tỏ trình độ trừu tượng ghê gớm của
người Hy Lạp thời ấy.
5
Dĩ nhiên ! vì chính nguyên tắc này bảo rằng
sự gắn bó giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt trong ngôn ngữ là phải trước sau như
một, không được thay ngựa giữa dòng, thế
thôi.
6
Do đó, toán học, con đẻ của logic hình
thức, chỉ giúp khảo sát được sự biến đổi
liên tục về lượng. Một ngoại lệ là « lý
thuyết tai biến » củaRené Thom, được áp dụng
trong những nghiên cứu về phát sinh hình
thái. Việc áp dụng lý thuyết này còn thiếu
khía cạnh định lượng, cho nên nó chỉ giải
thích được mà không tiên đoán được.
7
Đồng thời nó không phải là một màu nào cụ
thể. Màu xanh thì không đen, nhưng
màu không đen không phải là màu xanh.
8
Để ý là biểu tượng "A" trong mệnh đề "A và
không A đồng hiện hữu" vẫn tuân theo nguyên
tắc đồng nhất của logic hình thức, nếu
không như thế thì ngay cả việc nói về logic
biện chứng cũng bất khả