5. Triết học Bà la môn và đạo Phật tại Ấn Độ
Thật là một chủ đề mênh mông ! dù chỉ để tìm
hiểu về nhận thức luận và bản thể luận,
trong sự liên quan đến tư tưởng khoa học.
Nếu dừng lại ở thời điểm mà đạo Phật đã rời
khỏi Ấn Độ để truyền bá sang Trung Quốc và
Đông Nam Á (thế kỷ thứ 8) thì có thể chia
làm ba giai đoạn :
a) Trước khi Phật xuất hiện vào khoảng năm –
566,
tư tưởng chủ yếu của Ấn Độ nằm trong
hai bộ kinh Vệ Đà (phiên âm chữ Veda)
và Upanishad của tôn giáo Bà la Môn. Nhưng
qua kinh điển Phật giáo có thể thấy là trước
khi Phật xuất hiện ít lâu thì giáo lý Bà la
môn đã phần nào bị phủ nhận, bắt đầu gây nên
nghi ngờ và tranh luận.
b) Từ lúc Phật đắc đạo tới trước khi Phật
giáo đại thừa xuất hiện,
tư tưởng của Phật
giáo là nguyên thuỷ, trong thời này triết
học và đạo học phát triển mạnh do sự tranh
luận giữa giáo lý nhà Phật và đạo Bà la môn,
có thể nói nhờ có đạo Phật (cùng với hai
trường phái không chính thống khác là
jainisme và lokayata) mà triết học Bà la môn
đã phát huy lên một mức cao hơn trước. Và
ngược lại đạo Phật vẫn giữ một trong hai cặp
khái niệm nền tảng của Bà la môn là nghiệp /
luân hồi (phủ nhận cặp tiểu ngã / đại ngã),
cũng như một vài phương pháp luận khác
có thể
đã có trước, thí dụ như khái niệm duyên
khởi, quá phổ quát.
c) Rồi đến thời phát triển của triết lý Phật
giáo đại thừa, từ khoảng thế kỷ đầu của tây
lịch,
có lẽ vẫn do nhu cầu tranh luận ấy.
Nổi bật trong giai đoạn này là các triết
thuyết của Long Thọ và Thế Thân. Sau thế kỷ
thứ tám triết học Bà la môn vẫn phát triển
mạnh, nhưng không còn ảnh hưởng trên Phật
giáo trung quốc (và tư tưởng truyền thống
Việt Nam sau này) nữa, cho nên sẽ xin lược
qua ở đây.
Tuy nhiên, nghiên cứu ảnh hưởng qua lại giữa
các nhà tư tưởng và các tu sĩ tại Ấn Độ thời
ấy là chuyện hoàn toàn không đơn giản. Do
việc ảnh hưởng của văn hoá truyền khẩu tại
Ấn Độ mạnh hơn tại Hy Lạp và Trung Quốc
nhiều, mặc dù đã có chữ viết sớm nhưng các
kinh sách lại được ghi lại rất trễ ; do đó
để biết ai nói ra điều gì trước và ai ảnh
hưởng ai là điều cần những công trình nghiên
cứu ngôn ngữ, văn bản, và khảo cổ sâu rộng,
hiện nay các sách vở đều cho những con số
ước lượng (khác nhau) đi kèm với những ghi
chú rất thận trọng. Tại sao thế ? Nếu coi ba
đối tượng của tư tưởng là thiên nhiên, con
người, và xã hội, thì tư tưởng Trung quốc
nặng về quan hệ con người – xã hội, mà tư
tưởng Ấn Độ lại nặng về quan hệ thiên nhiên
– con người 1. Con người
Trung quốc là con người xã hội, Trung quốc
là nước của sử sách mà gần như không có
huyền thoại. Trong khi con người Ấn Độ là
con người tôn giáo, Ấn Độ là nơi chỉ có
huyền thoại mà không có lịch sử, và với họ
việc học thuộc lòng kinh sách có ý nghĩa đặc
biệt, có lẽ do truyền thống kể huyền thoại
từ rất xa xưa.
5.1. Thời Bà la môn nguyên thuỷ
Ngoài sức nặng hơn của tôn giáo ra, Ấn Độ cổ
đại xem ra lại khá giống Hy Lạp cổ đại, đến
độ có nhà nghiên cứu ngờ rằng có giao thoa
tư tưởng giữa hai bên. Pythagore và Platon
đều là những người tin theo thuyết luân hồi
2, mà nghiệp (karma) và luân hồi
(samsâra) là hai khái niệm phổ quát và có
thể nói là thường trực trong tư tưởng Ấn Độ
từ thời kinh Vệ Đà 3. Tuy
nhiên kinh này gồm chủ yếu các thánh ca và
các quy định nghi lễ của người Bà la môn,
trong đó có các huyền thoại về sáng tạo vũ
trụ với một thế giới đa thần, các ý tưởng về
bản thể chỉ là gián tiếp. Người ta thường
tìm hiểu khía cạnh triết lý của người Bà la
môn qua kinh Upanishad (niên kỷ khoảng từ
-800 đến -300).
Theo từ nguyên, Upanishad có nghĩa
ngồi gần (thầy),
hàm ý để thảo luận hay nghe giảng dạy. Đây
là một bộ nhiều quyển kinh hình thành dần
theo thời gian, hoặc ghi lại những giải
thích kinh Vệ Đà 4, hoặc
phát triển những hiểu biết khác của người Bà
la môn. Theo Will Durant 5,
nếu " không kể mấy đoạn văn của
Potah-hotep (Ai Cập) thì Upanishad là tác
phẩm triết lý và tâm lý cổ nhất của nhân
loại" ... " cổ như tác phẩm của Homère, mà
lại mới như học thuyết của Kant".
Upanishad không phải là một thể thống nhất,
nó ghi lại nhiều triết thuyết khác nhau.
Bên cạnh cặp khái niệm nghiệp / luân hồi,
một cặp khái niệm nữa rất quan trọng và phổ
quát trong triết lý Upanishad là "Đại ngã /
tiểu ngã" (Brahman/Atman), có thể hiểu là
rất giống như " linh hồn vũ trụ / linh hồn
cá nhân " của Plotin khi ông phát triển thế
giới ý niệm của Platon. Tiểu ngã phát sinh
từ Đại ngã, nhưng đã quên đi để mang ảo
tưởng mình tự hiện hữu, do đó lý tưởng là sự
tu tập để trở về với Đại ngã. Trở về với Đại
ngã là không còn bị nghiệp chi phối, thoát
khỏi luân hồi.
Vậy tu tập như thế nào ? Trả lời câu hỏi đó
đòi hỏi con người có hiểu biết về bản thân
mình và về thế giới. Con người sinh ra từ
đâu ? Cõi đời này sinh ra từ đâu ? Trước
những câu hỏi này Upanishad ghi nhận mà
không có câu trả lời. Hay nói đúng hơn,
trong Upanishad có một thái độ mở, nhiều ngụ
ngôn trong đó cho thấy ý thức rõ rệt về sự
bất túc của trí tuệ (vẫn theo Will
Durant, sách đã dẫn). Từ đó có thể thấy đạo
Bà la Môn cổ đại không giáo điều gay gắt.
Upanishad một mặt khuyến khích thảo luận
trong bao dung, ghi nhận những quan điểm
khác nhau về nhận thức luận và bản thể luận
6 ; mặt khác khuyến khích hành giả
tự mình đi tìm con đường tu tập. Và đó là
điều mà thái tử Tất Đạt Đa đã làm, cũng như
nhiều hành giả khác cùng thời.
5.2. Thời đại của Phật
Dù cho Bà la môn giáo nguyên thuỷ có thoáng
đến đâu thì cũng phải giữ hai giáo điều cơ
bản về nghiệp báo / luân hồi và Đại ngã /
tiểu ngã. Thiếu một trong hai thì không thể
gọi là Bà la môn chính thống, mà thành « tà
giáo » mất rồi. Còn thì tự do, tin có thần
linh hay không tin có thần linh cũng được.
Có sáu trường phái lớn được coi là chính
thống sẽ xin nói trong đoạn sau ; còn lại ba
tôn giáo / trường phái triết học phi chính
thống lớn là đạo Phật, đạo Jaïn (Jaina), và
triết học Lokayata.
Xin vắn tắt về đạo Jaïn và Lokayata
7. Đạo Jaïn cùng thời và giống đạo
Phật ở chỗ không chấp nhận Đại ngã và chấp
nhận luân hồi ; ngoài ra về tu tập thì khác,
để đạt giải thoát họ tu khổ hạnh và bất bạo
động tuyệt đối. Bất bạo động là quan điểm
sau đó đã truyền sang Ấn Độ giáo (hình thức
cải biên của Bà la môn trong thời hiện đại)
và Phật giáo. Đạo Jaïn vẫn còn một số tín đồ
nhỏ tại Ấn Độ, nhưng ảnh hưởng tư tưởng
không còn gì nhiều. Lokayata không phải là
tôn giáo mà là một triết thuyết hoàn toàn
duy vật, bác bỏ cả hai tín điều cơ bản của
Vệ Đà, và chỉ coi là hiện hữu những gì thấy
được qua giác quan. Họ cũng đã chủ trương ý
thức là do vật chất sinh ra. Đáng tiếc không
còn văn bản nào của trường phái này, họ chỉ
được biết đến qua những văn bản của các
trường phái khác, nêu ra để chỉ trích, trong
đó có một văn bản được định niên đại là thế
kỷ - 4. Vậy cũng có thể coi là phái này cùng
thời với Phật hay trước nữa.
Lý tưởng giải thoát khỏi nghiệp báo và luân
hồi vẫn là lý tưởng của Phật giáo, nhưng
quan niệm về luân hồi và giải thoát đã khác.
Không còn Đại ngã mà là Niết Bàn, cái tiểu
ngã là ảo tưởng thực sự, được hình thành từ
các giác quan, chứ không phải là cái Đại ngã
có sẵn trong con người mà bị che lấp bởi
nghiệp báo. Cuộc cách mạng tư tưởng khởi đầu
bằng lời dạy về Tứ Diệu Đế, dẫn đến chân lý
thứ tư, Đạo đế, là con đường tu tập theo Bát
Chánh Đạo. Những điều này là cơ bản của Phật
giáo, chắc không xa lạ với độc giả, xin
không nhắc lại thêm. Về mặt nhận thức luận
thì cần nhấn mạnh chân lý thứ hai, Tập đế :
đó là thuyết duyên khởi, với chuỗi Thập nhị
nhân duyên ; và về mặt bản thể luận là hai
chữ vô ngã và vô thường. Phật còn cho rằng
tìm trả lời cho những câu hỏi xa lạ số phận
con người như « vũ trụ là hữu hạn hay vô
hạn »... là vô bổ.
Chuỗi thập nhị nhân duyên trong Tập đế là sự
vận dụng rất rõ rệt của niềm tin duyên khởi,
hiểu theo nghĩa
quy luậtcủa
khoa học ngày nay 8.
Duyên khởi
tức là « có cái này thì có cái kia ». Không
biết có phải chữ
nhân quả
là do người Trung Quốc dịch, một cách thứ
hai, khái niệm duyên khởi của Ấn Độ (trong
đó có đạo Phật) bằng cách dùng một khái niệm
Trung quốc đã có sẵn. Vì
Nhân quả
tức là « A sinh ra B », A là nhân mà B là
quả. Hai ngôn ngữ tưởng như tương đồng mà
không hẳn thế, duyên khởi trung tính
hơn : nói
có A thì có B
khác với nói
A sinh ra B,
nếu hiểu theo từ nguyên ! 'Nhân',
'quả',
'sinh
ra',
đều mang một màu sắc sinh học. Hẳn là người
Trung quốc cổ đại nhìn cuộc đời một cách rất
... nhục cảm ; nên đã vận vào ngôn ngữ. Vài
lời đại ngôn, xin các bậc cao minh chỉ giáo.
5.3. Các triết thuyết Vệ Đà chính thống
Sáu triết hệ chính thống Vệ Đà có tên như
sau : Nyâna, Vaiçeshika, Sâmkhya, Yoga,
Pûrva-Mimâmsâ (gọi tắt là Mimâmsâ),
Uttara-Mimâmsâ (gọi tắt là Vedanta)
9.
a) Nyâna
là một trường phái nhận thức luận,
một số những thành quả rất đẹp của nó đã
được các trường phái khác thu nạp. Theo
Nyâna có bốn nguồn của hiểu biết : 1 - do
cảm nhận hay quan sát trực tiếp ; 2 - do suy
luận diễn dịch ; 3 - do so sánh tương tự và
ngoại suy ; và 4 – do chứng nhận gián tiếp
hay do dạy bảo. Diễn dịch của Nyâna gồm có 5
giai đoạn, nhưng thực chất có thể rút gọn
lại thành ra tương đương với tam đoạn luận
của Aristote.
b) Vaisheshika
là một bản thể luận vừa duy
vật vừa hữu thần ! Theo triết thuyết khá
phức tạp này thế giới gồm ý thức, linh hồn,
không gian, thời gian và vật chất. Vật chất
được cấu tạo từ nguyên tử, cũng như quan
niệm của Démocrite ; nhưng khởi đầu vũ trụ
tràn ngập bốn loại nguyên tử hỗn độn : đất,
nước, lửa, khí ; rồi một thần linh đã lấy
những nguyên tử đó kết hợp và nhào nặn với
nhau thành các thể vật chất. Về lý luận thì
Vaisheshika chỉ chấp nhận hai nguồn hiểu
biết đầu theo Nyâna.
c) Triết lý Sâmkhya (hay Sankhya)
của Kapila
(sống vào thế kỷ – 4 hay – 5, tức sau Phật)
là một biện chứng giữa tâm và vật, nhưng
không coi cái này được dẫn xuất từ cái kia
như hai triết gia Hy Lạp Platon và Aristote.
Cũng không như các triết gia theo biện chứng
duy tâm hay duy vật của châu Âu sau này,
theo đó Tâm "có trước", hay Vật "có trước"
10. Với ông cả tâm lẫn vật đều
thực sự hiện hữu (lưỡng nguyên) và sinh hoá
lẫn nhau trong một quan hệ chuyển dịch liên
tục (như Âm Dương của giới tính). Như thế
cũng không giống như lưỡng nguyên của
Descartes (trong đó thế giới tự nhiên là vô
tri vô giác). Có lẽ đây là mặt độc đáo của
triết học Ấn Độ, có ảnh hưởng lâu dài đến
Yoga và Phật giáo Mật tông. Trong truyền
thống Ấn Độ không có sự đối chọi và gián
đoạn giữa tâm và vật, mà là một sự chuyển
biến hữu cơ, được phát biểu như trong thập
nhị nhân duyên ; hay như trong triết hệ
Sâmkhya, trong đó các quan hệ duyên khởi
giữa thế giới vật chất và thế giới khái niệm
- tâm linh, được trình bày hơi khác.
d) Yoga,
chú trọng về các phương pháp luyện
tập thân thể và trí tuệ. Có lẽ đã quá quen
thuộc với độc giả.
e) Hai trường phái Mimâmsâ :
Mimâmsâ có
nghĩa là khảo sát, purga là có trước và
uttara là có sau. Uttara-Mimâmsâ được gọi là
Vedanta, sự kết thúc nghiên cứu Vệ Đà, bởi
vì triết thuyết này hiện được tôn trọng như
là sự phát triển và tổng hợp giàu có nhất và
cao nhất của các trường phái chính thống Vệ
Đà. Tuy nhiên Vedanta chỉ được hình thành từ
thế kỷ thứ tám sau tây lịch, không ảnh hưởng
đến chủ đề bài này. Purga-Mimâmsâ thì có từ
thế kỷ -4, chính là triết thuyết duy nhất
công khai gạt bỏ mọi sự hiện hữu của thượng
đế thần linh, mà vẫn được coi là chính
thống. Ngoài ra thì Mimâmsâ tiếp thu những
thành quả của Nyâna và Vaisheshika (và cải
biến để thành một thuyết nguyên tử vô thần)
5.4. Phật giáo đại thừa Ấn Độ
Hai nhà tư tưởng của Đại thừa Ấn Độ, tuyệt
đối quan trọng trong triết học Phật giáo đại
thừa, là Long Thọ (Nagarjuna, nửa sau thế kỷ
+2), với
Trung Quán luậnvà
Thế Thân (Vasubandhu, khoảng giữa thế kỷ
+5), với
Thành duy thức luận.
Nhưng trước hết cũng nên xác định rõ, khi
còn tại thế Phật luôn luôn từ chối những
tranh luận siêu hình. Triết học Phật giáo
đại thừa chỉ phát sinh nhiều thế kỷ sau khi
Phật tịch để bảo vệ và phát triển giáo lý
trong môi trường tranh luận triết học rất
sống động, giàu có, và phức tạp, tại Ấn Độ
như đã thấy ở trên (và về sau cần thiết để
thâm nhập vào tầng trên của xã hội Trung
Quốc, nơi cũng có một truyền thống trí thức
rất cao). Không những các nhà sư tranh luận
với các giáo phái khác mà còn tranh luận với
nhau, tạo nên nhiều tông phái khởi sắc,
nhưng vẫn "sống chung hoà bình", người tu
Phật có thể tuỳ duyên mà chọn lựa "chùa"
mình thấy hợp 11. Từ Ấn Độ
đã như vậy, và sau này truyền bá sang các
nơi khác lại càng như vậy.
5.5. Bản thể luận của Long Thọ
Cặp phạm trù chủ yếu và độc đáo của triết
học Phật giáo, không thấy có trong triết học
Hy Lạp cũng như trong các triết thuyết Vệ
Đà, chính là "sắc/không". Không thể hiểu
"sắc/không" như "tâm/vật" ; vì "sắc" bao gồm
cả tâm lẫn vật. Bàn về sắc/không có lẽ cả
đời không hết cho nên ở đây chỉ xin tóm lược
phương pháp luận của Long Thọ, người đã phát
triển chữ « không » đến tột cùng.
Phương pháp luận đó là một biện chứng rốt
ráo và nghiêm ngặt nhằm phủ định mọi kiến
thức, mọi khái niệm của tri thức về thế giới
vật chất cũng như tinh thần. Bất cứ hiện
tượng hay khái niệm nào vừa nêu ra là được
chứng minh nó không hiện hữu tự tại, mà chỉ
là sự tập hợp không thường còn của những
thành tố, những ý niệm khác. Những thành tố
hay ý niệm này lại được đưa vào cối xay phủ
định của biện chứng để bị đập vỡ lần nữa, cứ
như thế để cuối cùng đi đến một chữ
« không ». « Không » không phải là hư vô
tuyệt đối, mà được đồng nhất với Niết Bàn.
Và biện chứng phủ định của Long Thọ chính là
một biện chứng giải thoát, phá vỡ mọi khái
niệm, mọi chấp nhất.
Vậy tại sao lại « trung quán » (cái nhìn
triết chung) ? Cái nhìn ở giữa đây là không
chấp nhận hư vô tuyệt đối, và cũng không
chấp nhận Niết Bàn là cái gì có thể quan
niệm được, như là Đại ngã của Bà la môn giáo
chẳng hạn.
5.6. Duy thức luận của Thế Thân
Duy thức luận là một bản phân tích rốt ráo
và chi tiết quá trình tâm sinh lý về nhận
thức. Trong đó sự nhận biết (nếu không muốn
nói « nhận thức » !) được chia ra làm 8 quá
trình, 8 « thức ». 5 thức đầu có thể coi như
5 hệ thần kinh liên hệ với các giác quan, đó
là nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức,
thân thức (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể).
Năm giác quan đó liên hệ với một quá trình
trung tâm là « ý thức ». Bên trên ý thức còn
có hai tầng quá trình tâm sinh lý nữa là
« mạt na thức », rồi đến « a lại da thức ».
Hai thức cuối này được định nghĩa khá trừu
tượng, và có lẽ cần nhiều thời gian để nắm
bắt. A lại da thức gồm chứa mọi « chủng
tử », tức nguồn gốc tế vi của mọi « pháp »,
tức mọi hiện tượng và khái niệm. Chính vì
thế mà người ta nhận ra chúng. Như thế thức
thứ 8 không còn của riêng ai, mà nó trở
thành một cái gì chung, bất biến. Đại ngã ?
Diễn Đàn Forum số 156, 11.
2005
Chú thích :
1
Về phương diện này thì triết học Hy Lạp là
cân bằng hơn cả trên ba cực thiên nhiên –
con người – xã hội.
2
Luân hồi đóng vai trò rất quan trọng trong
triết thuyết của Platon để giải thích tại
sao con người hiểu được những ý tưởng tuyệt
đối trong thế giới ý niệm : đó là vì trước
khi đầu thai linh hồn con người sống trong
thế giới đó, nên khi về cõi trần thì nhớ
lại.
3
Có bốn bộ kinh Vệ đà, với những chủ đề khác
nhau, Theo François Chenet, trong « La
philosphie indienne », nxb Armand Colin,
Paris 1998, ba bộ đầu của kinh Vệ Đà được
hình thành dần trong khoảng thời gian từ –
1500 đến -1200, bộ cuối được hình thành
khoảng – 900 ( -500 theo W. Durant). Vệ Đà
được truyền khẩu nhiều thế kỷ trước khi có
bản viết, vì vậy các niên đại hình thành chỉ
là ước lượng và ý kiến các học giả rất khác
nhau.
4
Học giả Nguyễn Đăng Thục có khi gọi
Upanishad là « Áo nghĩa thư », cuốn sách
nói về những ý nghĩa sâu kín. Nhưng
chính ông và những học giả khác lại thường
để nguyên chữ Upanishad mà không dịch, các
sách vở tây phương cũng vậy.
5
Lịch sử văn minh Ấn Độ,
bản dịch của Nguyễn Hiến Lê.
6
Do sự so sánh thời gian hình thành của đạo
Phật và Upanishad, khó biết là những quan
điểm này được phát triển trước hay sau đạo
Phật, với ảnh hưởng qua lại như thế nào.
Thêm nữa có những tác giả sống hàng nghìn
năm sau nhưng lại phát triển những ý tưởng
đã có sẵn trong Upnishad. Trong bài này sẽ
nói đến các trường phái chính thống Vệ Đà
sau các trường phái phi chính thống, nhưng
trước Phật giáo đại thừa. Như thế chỉ tôn
trọng tương đối cái dàn bài theo thời gian.
7
Theo : Lịch sử triết học, Nguyễn Hữu Vui chủ
biên, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002
8
Thông thường trong đạo Phật « nhân quả » có
khi được hiểu như khái niệm « nghiệp báo » :
nhân nào quả nấy, đời cha ăn mặn đời con
khát nước v.v. , không chính xác lắm. Nhưng
trong chiều sâu hai cách hiểu này có liên hệ
một cách tế vi. Vì chính sự phân tích khoa
học / triết học của chuỗi thập nhị nhân
duyên là nhằm giải thích và chỉ ra con đường
tu tập để thoát khỏi nghiệp báo và luân hồi.
9
Về những triết thuyết này, xem các tác phẩm
dẫn trong chú thích 3, 5 và 7.
10
Đây không phải có trước theo thời gian, dĩ
nhiên. "Có trước" theo nghĩa mặc dù cái này
điều kiện hoá cái kia theo hai chiều, nhưng
có một mặt là cơ bản, suy đến cùng (en
dernière instance) thì chính nó điều kiện
hoá mặt kia. Người viết bài này mường tượng
: đã gắn với quan niệm thời gian là luân hồi
thì trong biện chứng giữa tâm và vật không
thể có một khía cạnh quyết định. Chỉ có thể
nói "đến cùng" khi người ta có một quan niệm
về thời gian tuyến tính, cơ sở cho khái niệm
"tiến bộ", từ đó có thể tin ở phán quyết của
lịch sử ; một khác biệt giữa "Đông phương"
và "Tây phương" ?
11
Có một tôn giáo tên là "Phật giáo" (PG) ai
cũng nhận ra khỏi cần bàn, ít ra thì chùa
nào cũng có tượng Phật ; nhưng các phương
pháp tu tập giữa hai chùa có thể khác nhau
rồi. Còn về những triết luận thì thật không
đủ chính xác khi nói PG là thế này hay PG là
thế kia, chứ còn nói gì đến "phương Đông thế
này, phương Đông thế kia ». Như thế thật mù
mờ sương khói, muốn minh hoạ cái gì cũng
được. Đó là phương pháp mị độc giả của một
người như Fritjof Capra, hy vọng là ông ta
cũng tự mê muội chính mình...
|