Bài
3: Chỗ đứng của con người
“Thực ra toàn bộ toán
học là hình học”
Gottlob Frege
Có thể nói những
chương trình computer dành cho Deep Blue 1997 và Thí nghiệm Turing
năm 2009 là những kiệt tác của khoa học AI (Trí thông minh nhân
tạo). Chúng không chỉ thúc đẩy khoa học computer vươn tới những
phép lạ, mà quan trọng hơn, về mặt triết học nhận thức chúng hé
lộ cho chúng ta thấy rõ hơn tính người thực sự nằm ở đâu – tính
người không “trú ngụ” nhiều ở những nơi computer có thể xử lý, mà
nằm ở những nơi computer bất lực!
Lynn Fancher, Phó
GS Sinh học tại Đại học College DuPage, Glen Ellyn, Illinois, Mỹ,
trong bài báo “The Limitations of Science”
(Hạn chế của khoa học), nêu lên 3 lĩnh vực mà khoa học không thể
trả lời, cũng tức là 3 lĩnh vực mà computer bất lực:
Một: Khoa học không
thể trả lời những câu hỏi về giá trị. Chẳng hạn, không thể trả lời
câu hỏi “Hoa Hồng hay hoa Cúc đẹp hơn?”, hoặc “Vàng hay thép giá
trị hơn?”.
Hai: Khoa học cũng không thể trả lời những câu hỏi về đạo đức. Vấn
đề quyết định xem cái gì là thiện hay ác, đúng hay sai, nằm ngoài
phạm vi khoa học.
Ba: Khoa học không giúp chúng ta trả lời được những câu hỏi liên
quan tới những khái niệm siêu-tự-nhiên (supernatural). Thí dụ: Không
thể chứng minh hoặc phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế.
Vậy phải tìm câu trả lời cho ba lĩnh vực trên ở đâu?
Hãy tìm trong văn chương, thơ ca, nghệ thuật, âm nhạc, triết học,
… Đây mới thật sự là những lĩnh vực nhận thức “người nhất”, giầu
tính nhân văn nhất!
Kết luận trên tuy
không mới mẻ, nhưng trong bối cảnh của nền văn minh kỹ trị ngày
nay, khi các khoa học vật chất đã và đang chiếm địa vị lấn át, tư
duy hình thức sáo rỗng đang lấn át tư duy cảm xúc, tư duy máy móc
đang lấn át tư duy nhân văn, thì sự khẳng định những giá trị
người nhất của con người mang một ý nghĩa cứu tinh!
Nó báo động cho
chúng ta biết rằng nền văn minh kỹ trị đang đi nhầm đường!
Nó kêu gọi loài
người hãy tỉnh thức khi còn kịp, để cứu vãn cỗ xe văn minh khỏi
lao xuống vực thẳm của chiến tranh, tội ác, đói nghèo, ô nhiễm môi
trường, hâm nóng khí quyển, tàn phá sinh thái, tha hoá đạo đức,
vô cảm trước nỗi đau, …
Nó khuyến dụ chúng
ta hãy điều chỉnh nền giáo dục trở về với mục tiêu nhân văn!
Nó dạy chúng ta
rằng hãy sử dụng computer như những tên nô lệ đắc lực, thay vì tôn
chúng lên thành những ông chủ!
Nó đánh động lương
tri của mỗi chúng ta, nhắc bảo chúng ta cái gì mang tính người nhất
trong chúng ta, để chúng ta hướng tới những giá trị người nhất ấy
mà sống!
Vâng, cái làm cho
chúng ta thực sự trở nên người là những giá trị thuộc về phần hồn
(the soul), bởi linh hồn là một cái gì đó liên hệ rất nhiều tới
thơ ca, nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, v.v.
Khi con người đang
sống, linh hồn luôn luôn gắn bó với thể xác, nhưng nó không
phải là thể xác. Ngay từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, nhà triết
học Hy Lạp Socrates đã cho rằng linh hồn là một cái gì đó “vượt
quá” thể xác (transcended the body) – một cái gì đó phi vật chất
và siêu việt hơn vật chất – trong khi nhiều người cùng thời với
ông cho rằng linh hồn được tạo bởi một dạng vật chất tinh tế nhất
và lơ lửng trong không khí.
Trong thời đại
ngày nay, có người ví phần hồn và phần xác của con người tương tự
như phần mềm và phần cứng của computer. Tuy nhiên, ví von này không
tránh khỏi khập khiễng: phần mềm của computer tuy “không cứng” nhưng
nó vẫn là vật chất có thể nhìn thấy được, trong khi linh hồn là
một cái gì đó phi vật chất, hoặc nếu nó là vật chất như quan niệm
của một số lý thuyết về năng lượng tinh thần thì ít ra nó cũng là
một dạng vật chất siêu hình hoặc vô hình, vô ảnh, vô tượng, vô lượng,…
Có lẽ việc kiểm chứng sự tồn tại của linh hồn còn khó gấp bội so
với việc kiểm chứng “vật chất tối” (dark matter) và “năng lượng
tối” (dark energy) trong vật lý ngày nay. Phương trình trường của
Einstein có thể đã ngầm chứa khái niệm năng lượng tối, nhưng liệu
có thể có một phương trình nào chỉ ra sự tồn tại của linh hồn hay
không?
Tuy nhiên, những
nền văn minh lớn nhất từ xa xưa đã tin vào sự hiện hữu của linh
hồn, thậm chí người ta còn bàn cãi linh hồn nằm ở đâu, và quan trọng
nhất, người ta cho rằng phần hồn mới là phần mang tính người nhiều
nhất!
Thật vậy, người
Ai-cập cổ đại tin rằng linh hồn nằm trong trái tim. Bằng chứng là
các xác ướp Ai-cập đều giữ lại quả tim, trong khi mọi bộ phận khác
của cơ thể đều bị loại bỏ, kể cả bộ não – bộ não không quý bằng
trái tim, tư duy không quý bằng cảm xúc, sự khôn ngoan không quý
bằng những rung động tinh thần! Tóm lại, người Ai-cập cổ đại cách
đây hàng ngàn năm đã thấy linh hồn là thành phần mang tính người
nhiều nhất – cái mà mấy ngàn năm sau, nền văn minh kỹ trị đã và
đang dần dần lãng quên.
Sự lãng quên này
có nguồn gốc sâu xa là chủ nghĩa duy lý (rationalism) và chủ nghĩa
thực chứng (positivism) – những chủ nghĩa cho rằng tất cả những
gì không thể chứng minh hoặc không thể kiểm chứng đều không đáng
tin. Linh hồn là một khái niệm dựa trên niềm tin nhiều hơn là chứng
minh hoặc thực chứng, vì thế sự tồn tại của linh hồn không đáng
tin. Ngược lại, thể xác là cái hiện hữu có thể kiểm chứng được,
do đó mối quan tâm tới con người trước hết phải là quan tâm tới
thể xác. Nhu cầu ăn uống, sinh tồn là nhu cầu thiết thực, trong
khi nhu cầu thoả mãn phần hồn là nhu cầu viển vông, hư vô chủ nghĩa.
Đó là nguồn gốc sâu xa dẫn tới sự xói mòn các giá trị nhân văn trong
những thế kỷ sau này, đặc biệt trong thế kỷ 20 – thế kỷ bùng nổ
của khoa học và công nghệ, dẫn tới sự thống trị của tư duy lý tính
– tư duy Descartes.
René Descartes
(1596-1650), cha đẻ của Hệ toạ độ Descartes và Hình học giải tích,
một trong những ông tổ của chủ nghĩa duy lý, người có ảnh hưởng
bao trùm lên tư duy hiện đại với câu châm ngôn nổi tiếng: “Cogito
ergo sum” = “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”.
Ông không nói “Tôi
cảm thấy…”, “Tôi nghiệm thấy…”, “Tôi nhận thấy…”. Không! “Tôi tư
duy…” , mà là tư duy lý lẽ, tư duy chứng minh, tư duy biện luận,
tư duy giải thích, tư duy phân tích, …
Ông không chỉ nói,
mà hành động để chứng minh tư tưởng của ông là chân lý: Hình học
Euclid dựa trên những chứng minh trực giác được thay thế bằng Hình
học giải tích – suy diễn dựa trên cảm nhận trực giác được thay thế
bằng những biến đổi thuần tuý đại số, cảm nhận mang tính người được
thay thế bằng tư duy tính toán (mà ngày nay ta gọi là tư duy computer).
Đó chính là điều đang diễn ra trong nhà trường, nhưng các nhà giáo
dục không ý thức được rằng họ đang biến con người thành những chiếc
computer! Điều này sẽ được phân tích kỹ hơn trong một bài viết tiếp
theo, còn bây giờ xin hãy quay lại với Descartes.
Bản thân Descartes
là một nghịch lý: trong khi chủ trương duy lý, nhưng ông lại tin
vào sự tồn tại của những thứ không thể chứng minh được. Thật vậy,
trước khi nhắm mắt, ông nói: “Nào, hãy lên đường đi, linh hồn ta
hỡi!” (Allons, s’en-va, môn âme!). Thậm chí ông còn ra sức chứng
minh sự tồn tại của Thượng đế, mặc dù cuối cùng thất bại.
Riêng về linh hồn, ông là người đòi phải tìm ra vị trí trú ngụ chính
xác của linh hồn trong cơ thể con người. Theo ông, linh hồn nằm
tại chính giữa bộ não (?).
Các nhà thơ, nhà
văn lại thường mô tả tâm hồn nằm trong đôi mắt: “sinh khí” và tinh
thần của con người biểu lộ rất rõ qua đôi mắt, ánh mắt – đôi mắt
là cửa sổ của tâm hồn! Trong khi các nhà khoa học thần kinh trước
đây đã từng nghĩ rằng tư duy của con người tập trung ở não trái.
Nhà khoa học thần kinh Oliver Sacks nói:
“Toàn bộ lịch sử
thần kinh học và tâm-lý-thần-kinh-học (neuropsychology) có thể được
coi như lịch sử của việc nghiên cứu bán cầu não trái. Một lý do
quan trọng để người ta ít chú ý tới não phải là ở chỗ trong khi
dễ dàng chứng minh các hiệu ứng của các tổn thương khu vực khác
nhau đối với não trái, thì các triệu chứng bệnh lý tương ứng của
bán cầu não phải lại rất ít phân biệt. Não phải nói chung bị xem
thường so với não trái vì mang tính “nguyên thuỷ” hơn, trong khi
não trái được xem như một bông hoa độc đáo của sự tiến hoá của con
người. Theo một nghĩa nào đó thì điều này là chính xác: não trái
tinh vi và chuyên biệt hơn, một sản phẩm tự nhiên hình thành rất
muộn trong não vượn và đặc biệt trong não người. Mặt khác, chính
não phải kiểm soát các khả năng chủ yếu trong việc nhận biết thế
giới hiện thực xung quanh mà mọi động vật phải có để sinh tồn. Bán
cầu não trái giống như một chiếc computer được gắn vào não người,
được thiết kế để xử lý các chương trình và sơ đồ …”.
Tư tưởng nói trên
cho thấy các nhà khoa học thần kinh đã từng coi tư duy của con người
cũng giống như tư duy của computer. Tuy nhiên, những thành tựu mới
nhất của khoa học computer đã chỉ ra rằng phần tư duy người nhất
của con người không phải là tư duy computer, và điều này hoàn toàn
ăn khớp với những khám phá mới nhất của khoa học thần kinh.
Thật vậy, bài báo
“Right Brain vs. Left Brain” (Não phải đấu với não trái)
cho biết: Trong khi não trái thiên về những chức năng suy luận logic,
phân tích lý luận, mổ xẻ chi tiết, nhận xét khách quan (không bị
ảnh hưởng bởi cảm xúc riêng tư) thì não phải lại thiên về chức năng
tư duy trực giác, tư duy tổng hợp, tư duy khái quát, cảm hứng ngẫu
nhiên, nhìn toàn thể để rút ra cái chung mang tính bản chất, tư
duy chủ quan (cảm xúc riêng tư).
Qua đó có thể kết
luận: tư duy của não trái thiên về tư duy computer, tư duy não phải
thiên về tư duy người. Phần người nhất trong con người nằm ở não
phải – linh hồn con người nếu phải tìm chỗ trú ngụ, nó sẽ chọn ngôi
nhà chủ yếu ở não phải!
Tuy nhiên sẽ là
một nhầm lẫn lớn nếu tuyệt đối hoá việc tách bạch hai loại tư duy
thành hai khu vực hoàn toàn tách rời nhau. Thực tế hai bán cầu não
thường phối hợp hoạt động với nhau để có được một tư duy đầy đủ
nhất – giống như một hoạ sĩ lập thể có thể thể hiện một đối tượng
với nhiều hình chiếu cùng xuất hiện một lúc trên một bức tranh,
cái mà nghệ thuật phối cảnh cổ điển không thể có.
Đến đây có lẽ chúng
ta sẽ dễ dàng đồng ý với nhau rằng tư duy thơ ca, nghệ thuật sẽ
hoạt động chủ yếu ở não phải, và đó là tư duy nằm trong phần đặc
trưng cho tính người. Vậy tư duy khoa học thì sao?
Phải chăng tư duy khoa học là tư duy computer, và do đó kém tính
người hơn tư duy văn chương, nghệ thuật?
Không, đó là một ý nghĩ hồ đồ, kém hiểu biết về bản chất của khoa
học.
Nếu so sánh khoa học với các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, thì
phải thừa nhận rằng khoa học chứa đựng nhiều tư duy máy móc hơn.
Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu tuyệt đối hoá kết luận đó. Thực tế những
nhà khoa học chân chính cũng đồng thời là những nghệ sĩ, theo đúng
nghĩa của từ này. Còn ai nghệ sĩ hơn Albert Einstein khi ông tuyên
bố: “Trí tưởng tượng quan trọng hơn tri thức” (The imagination
is more important than knowledge). Thực ra Einstein và Picasso cùng
tìm kiếm một chân lý như nhau, nhưng chỉ khác nhau ở phương pháp
tiếp cận mà thôi. Đó là lý do giải thích vì sao Einstein rất mê
Hình học Euclid. Ông gọi đó là cuốn “Hình học thiêng liêng” (The
Holy Geometry). Tư tưởng hình học xuyên suốt đời ông, và có thể
nói không ngoa rằng Thuyết tương đối tổng quát của ông chính là
một lý thuyết “Hình học vật lý”. Cảm xúc hình học thiên về cảm xúc
người, cảm xúc đại số thiên về tư duy của computer. Đó là lý do
để Gottlob Frege, một nhà toán học lớn của Đức đầu thế kỷ 20, đã
thốt lên vào lúc cuối đời, rằng “Thực ra toàn bộ toán học là hình
học”.
Đáng tiếc là phần lớn các nhà giáo dục không hiểu điều Frege nói.
Muốn hiểu Frege, phải tìm hiểu lịch sử toán học thế kỷ 20, đặc biệt
phải hiểu Chủ nghĩa toán học hình thức là gì, và không thể không
biết “thảm hoạ giáo dục” trên thế giới những năm 1960 dưới danh
hiệu “Toán học mới” (New Mathematics) mà tác hại của nó vẫn còn
tới hôm nay. Tất cả những chuyện đó xin dành cho bài kỳ sau:
“Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại!”
27.05.2011
Phạm Việt Hưng