
“Tôi cảm thụ,
vậy tôi tồn tại”
Để mở kho báu của Aladin, phải niệm câu thần
chú: “Vừng ơi, mở ra!”.
Để mở kho báu của chân lý, Descartes tuyên
bố: “Tôi tư duy, …”.
Tư duy đề-các
là tư duy biểu đồ, tư duy giải tích, tư duy
logic, tư duy lý tính, tư duy chứng minh, tư duy mổ xẻ: mổ xẻ
tới từng thành phần chi tiết để thấy rõ mối liên hệ nhân-quả
giữa các thành phần, giống như khoa giải phẫu mổ xẻ thân thể con
người để thấy rõ từng cơ quan nội tạng, hay như khoa vật lý đập
vỡ vật chất ra thành từng phần tử ngày càng nhỏ bé – phân tử,
nguyên tử, electron, proton, neutron, quarks, nhằm khám phá ra
bản chất của vật chất, hoặc như khoa sinh vật soi kính hiển vi
vào từng tế bào, từng chuỗi ADN nhằm khám phá ra bản chất sự
sống.
Kiểu tư duy ấy đặc trưng cho triết học nhị
nguyên của Tây phương và đồng thời là hệ tư duy đang thống trị
trong xã hội hiện đại – tư duy máy móc, tư duy cơ giới, tư duy
logic hình thức, tư duy computer.
Thật vậy, mặc dù Descartes đã ra đi từ hơn
350 năm nay, nhưng phương pháp nghiên cứu của ông vẫn đang diễn
ra hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta: đâu đâu cũng thấy hệ
trục toạ độ đề-các (cartesian coordinates) – biểu đồ kinh tế,
biểu đồ tài chính, biểu đồ chứng khoán, biểu đồ y tế, biểu đồ
khí hậu, biểu đồ dân số, biểu đồ sức khoẻ, điện não đồ, điện tâm
đồ, bản đồ định vị, … Dường như bất cứ một báo cáo, một khảo
sát, một công trình nghiên cứu nào cũng phải có biểu đồ phân
tích tình hình, nếu không, báo cáo hoặc công trình ấy sẽ bị coi
là kém chất lượng, kém khoa học. Đó là hiện tượng “đề-các-hoá”
(cartesianisation) trong nền văn minh kỹ trị ngày nay. Hiện
tượng này biểu lộ ở hai cấp độ:
1. Máy móc hoá, cơ giới hoá tư duy tính toán.
2. Máy móc hoá, cơ giới hoá toàn bộ tư duy
của con người.
Cấp độ 1 đánh dấu bước nhẩy vọt của nền văn
minh vật chất, đặc biệt kể từ khi có computer. Biểu lộ dễ thấy
nhất là computer có mặt ở khắp nơi, phục vụ mọi công việc tính
toán, từ việc đơn giản nhất như dịch vụ bán hàng cho tới những
công việc vô cùng phức tạp như tính toán quỹ đạo bay của con tầu
vũ trụ, tính toán xác suất va chạm của các hạt cơ bản để tìm ra
một loại hạt mới, v.v. Trong vô vàn ứng dụng đó, rất nhiều ứng
dụng liên hệ chặt chẽ với hệ toạ độ đề-các. Chẳng hạn, tên lửa
tìm diệt những mục tiêu trên mặt đất hoặc trên mặt biển chính là
những vũ-khí-computer được hướng dẫn tìm mục tiêu theo bản đồ
định vị. Hoặc trong trường hợp vừa qua đặc nhiệm SEAL của Mỹ bất
ngờ tiêu diệt Bin Laden, chắc chắn họ đã có trong tay bản đồ
định vị chính xác nơi ở của tên trùm khủng bố này.
Tóm lại, chúng ta sẽ không thể hình dung nổi một nền văn minh
vật chất hiện đại nếu không có tư duy đề-các. Đó là lý do để câu
châm ngôn của Descartes, “Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại”,
trở thành một trong những câu châm ngôn nổi tiếng nhất trong
toàn bộ nền văn minh nhân loại, được bàn luận nhiều nhất dưới
nhiều góc độ, từ khoa học cho tới triết học.
Tuy nhiên, khi tư duy Descartes có xu hướng
bao trùm lên toàn xã hội, tư duy máy móc lấn át tư duy của con
người, giá trị vật chất lấn át các giá trị nhân văn, thì hiệu
ứng phản lực xuất hiện:
Jean Paul Sartre dường như muốn nhấn mạnh đến
cái phi lý của xã hội hiện đại nên đã phủ định Descartes: “Tôi
tư duy, vậy tôi không tồn tại”.
Trong khi đó, Louis Lavelle điều chỉnh tuyên bố của Descartes
dưới một dạng thức chính xác hơn:
“Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại!”.
Tư tưởng của Lavelle rất dễ hiểu: không phải
tư duy lý luận giúp chúng ta nhận chân sự vật, mà là tư duy cảm
thụ. Vì vậy, nếu việc cơ giới hoá tư duy tính toán được coi là
một thành tựu lớn lao của khoa học thì xu hướng cơ giới hoá toàn
bộ tư duy của con người chỉ thể hiện một trình độ ấu trĩ về nhận
thức đối với bản chất của con người. Nói cách khác, nếu sùng bái
suy luận logic đến mức coi nó như một phương pháp tư duy vạn
năng, thay thế cả tư duy cảm thụ thì đó là một việc làm phản
khoa học và phản nhân văn!
Thật vậy, như chúng ta đã biết, khoa học thần
kinh và tâm-lý-thần-kinh-hoc (neuro-psychology) đã phân chia bộ
não của con người thành hai khu vực: bán cầu não trái và bán cầu
não phải, mỗi khu vực “thiên vị” một chức năng tư duy cụ thể.
Mặc dù hai bán cầu thường phối hợp với nhau
để tư duy trong từng trường hợp cụ thể, nhưng bán cầu não trái
thiên về tư duy logic, tư duy phân tích, tư duy tính toán, tư
duy kiểu computer, trong khi bán cầu não phải thiên về tư duy
cảm xúc, tư duy trực giác, tư duy tổng hợp, tư duy tưởng tượng,
tư duy khái quát.
Qua đó có thể thấy ngay rằng xu hướng muốn
logic hoá, máy móc hoá toàn bộ tư duy của con người là trái với
bản chất hoạt động của bộ não, vô tình thủ tiêu bán cầu não
phải, thủ tiêu khu vực hoạt động tư duy mang tính người nhiều
nhất.
Đã có một thời khoa học thần kinh có quan
điểm sai lầm: xem thường vai trò của bán cầu não phải, đề cao
vai trò của bán cầu não trái, cho rằng tư duy cao cấp của con
người hoạt động chủ yếu ở não trái, trong khi não phải chỉ đóng
vai trò điều khiển những giác quan thông thường như nghe, nhìn,
… cốt để nhận thông tin từ thế giới xung quanh mà bất cứ loài
vật nào cũng có. Sai lầm này vô tình đã đồng nhất tư duy của con
người với tư duy của computer – coi tư duy lý luận là tư duy cao
nhất và khoa học nhất của con người. Điều này hoàn toàn trái
ngược với một khẳng định mang tính triết học về nhận thức mà
Henri Poincaré, một trong những nhà toán học, vật lý học và
triết học vĩ đại nhất của mọi thời đại, đã tổng kết trong cuốn
“Science et Méthode” (Khoa học và Phương pháp) ngay từ năm 1908:
“Nhờ logic chúng ta chứng minh, nhờ trực
giác chúng ta khám phá”
Trực giác là khả năng cảm thụ chân lý một
cách trực tiếp, không cần suy luận và chứng minh. Trong tiến
trình nhận thức, trực giác đi trước, lý luận chứng minh đi sau.
Trực giác là cái định hướng, là khả năng “đánh hơi”, logic lý
luận chẳng qua là cái giúp chúng ta củng cố niềm tin vào một sự
thật khi nó đã bị trực giác nhận diện.

Định hướng sai thường phải trả một giá rất
đắt để quay lại một định hướng đúng. Thí dụ điển hình là sai lầm
của “Chủ nghĩa toán học hình thức”
(formalism) trong thế kỷ 20 – một chủ nghĩa đề cao logic hình
thức tới mức không đếm xỉa tới thực tiễn, coi toán học đơn thuần
chỉ là một chuỗi ký hiệu logic suy diễn vô hồn, vô cảm, nhưng có
thể khám phá ra những chân lý tuyệt đối ngoài ý muốn chủ quan
của con người, miễn là con người tìm ra cho nó một hệ tiên đề
độc lập, đầy đủ, và phi mâu thuẫn. Chủ nghĩa này đã làm méo mó
nhận thức về bản chất của toán học, dẫn tới thảm hoạ giáo dục ở
Tây phương những năm 1960 dưới ngọn cờ “Toán học mới”. Về lý
thuyết, chủ nghĩa này đã bị khai tử từ năm 1931 bởi “Định lý bất
toàn” (Theorem of Incompleteness) của Kurt Godel, nhưng trên
thực tế nó vẫn gây ra vô vàn hệ lụy tiêu cực, đặc biệt trong
những nền giáo dục chậm phát triển – những nơi thông tin không
được cập nhật, hoặc những nơi có truyền thồng giáo dục hủ nho,
tầm chương trích cú.
May thay, những thành tựu mới nhất của khoa
học computer và khoa học thần kinh đã và đang vén bức màn bí mật
cho chúng ta thấy rõ đâu mới là khu vực tư duy thật sự mang tính
người.
Hai sự kiện tiêu biểu: 1* Siêu-computer Deep
Blue đánh thắng vua cờ Garry Kasparov năm 1997 và 2* Computer
trong Thí nghiệm Turing 2009 đánh lừa được ban giám khảo, đã tạo
nên một bước ngoặt trong nhận thức về bản chất người:
Chỗ mạnh của con người không phải là tư
duy tính toán và suy luận logic, mà là tư duy cảm thụ, tư duy
trực giác, tư duy tưởng tượng!
Cờ vua từng được coi là một nghệ thuật “có
tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”,
một “hòn đá thử vàng của trí tuệ”,
nhưng nó “đã hoàn toàn chết”
kể từ khi Deep Blue đánh thắng vua cờ Kasparov. Từ những sự kiện
gây chấn động này, thay vì thần thánh hoá tư duy logic, những
nhà thông thái giầu óc nhân văn nhất như Douglas Hofstadter lại
rút ra một kết luận đảo lộn với những quan niệm trước đây: “Khi
một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người
ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư
duy thực sự”.
Nói một cách dễ hiểu: Tư duy mang tính người nhiều nhất không
phải là tư duy tính toán, mà là tư duy cảm thụ!
Văn chương, nghệ thuật, thơ cả, âm nhạc, … là
những lĩnh vực tư duy mang tính người nhiều nhất, vì đó là mảnh
đất của cảm xúc, nơi computer trở nên vô dụng hoặc chỉ đóng vai
trò một tên nô lệ trung thành.
Thực ra trong mọi lĩnh vực hoạt động tư duy
của con người, dù là văn chương, nghệ thuật hay khoa học,
computer chỉ xứng đáng làm một tên đầy tớ, trừ khi chính con
người tôn chúng lên địa vị ông chủ. Ý này đã được Reuben Hersh
nhắc đến trong cuốn “What is Mathematics, Really?” (Thực ra Toán
học là gì?):
“Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học,
phần lớn tư duy của con người không tuân thủ logic. Logic là gì?
Logic là tư duy của computer. Con người cũng có thể tuân thủ
logic nếu muốn biến mình thành những chiếc computer”.
Liệu con người có dại dột để biến mình thành
computer không? Hãy nghe Albert Einstein nhận định:
“Tư duy trực giác là một món quà thiêng
liêng và tư duy lý luận là một tên đầy tớ trung thành. Chúng ta
đã tạo ra một xã hội vinh danh tên đầy tớ và bỏ quên món quà”.
Vào thời của Einstein, chưa có PC (personal
computer) – computer cá nhân. Hiện nay PC có mặt khắp nơi, “tên
đầy tớ” lại càng được vinh danh hơn, món quà trực giác càng bị
coi thường hơn. Cứ nhìn xem cách dạy và cách học ở nhà trường
hiện nay khắc rõ. Chẳng phải gần đây vẫn có một giáo sư viết
sách giáo khoa toán tuyên bố “Xa rời thực tế mới là điểm mạnh
của toán học”
đó sao? Thực ra đây chỉ là sự sao chép tư tưởng hình thức của
Gottlob Frege đầu thế kỷ 20. Đáng tiếc là sự sao chép này không
ý thức được rằng về cuối đời, Frege đã nhận ra sai lầm của mình.
Không những thế, ông còn trở thành một tấm gương sáng chói về
đạo đức khoa học khi lên tiếng công khai phủ định tư tưởng hình
thức của chính mình.
Sai lầm của Frege là cố gắng biến Số Học
thành một hệ logic thuần tuý hình thức, tuyệt đối xa rời hiện
thực. Đối với Frege, số 2 không có nghĩa là 2 con gà, 2 con vịt,
… Số 2 toán học phải là một cái gì đó “xa rời thực tế mới là
điểm mạnh”, một số 2 cao siêu, trừu tượng, hoàn toàn khác với số
2 dùng để đếm mà cha ông tổ tiên chúng ta đã phát minh ra từ
thời nguyên thuỷ. Frege mắc phải cái bệnh của nền văn minh hiện
đại: thích đưa ra những tư tưởng độc đáo, mới lạ, càng trừu
tượng, càng hình thức, càng hàn lâm, càng khó hiểu thì càng có
vẻ khoa học!
Nhưng Frege có trái tim của nhà khoa học chân
chính. Ông đã hối hận. Ông đã biết minh sai, và đã để lại cho
đời một lời trăng trối bất hủ:
“Tôi càng suy nghĩ về điều này thì tôi
càng đi đến chỗ tin rằng số học và hình học đều nẩy sinh từ cùng
một nền tảng, thực ra là từ nền tảng hình học; Do đó toàn bộ
toán học thực ra là hình học”.
Khái niệm “nền tảng hình học” ở đây ám chỉ
một cái gì đó có hình tượng, có cảm xúc, có trực giác, có chỗ
dựa thực tiễn, thay vì chỉ là một mớ logic ký hiệu “loằng
ngoằng” vô cảm. Ngôn ngữ “loằng ngoằng” vô cảm là ngôn ngữ của
computer. Ngôn ngữ của con người là ngôn ngữ đời sống, sinh động
gấp hàng tỷ lần ngôn ngữ của computer, bởi nó không chỉ diễn đạt
bằng ký hiệu, mà còn bằng cử chỉ, động thái, ánh mắt, thậm chí
bằng sự lặng thinh, bằng sự giao cảm, bằng nhiều con đường khác
nhau mà chính con người chưa khám phá ra hết. Sự giao cảm ấy
không chỉ diễn ra giữa con người với con người mà còn giữa con
người với vạn vật và với chính bản thể của mình, giúp cho con
người nhận thức được sự hiện hữu của vạn vật và của chính nó.
Trong khi đó, computer không bao giờ ý thức được sự hiện hữu của
chính nó.
Trong những dạng ngôn ngữ mà con người có thể
hiểu, ngôn ngữ hình ảnh có ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Chẳng hạn,
Hình học Euclid là một hình học vô cùng sinh động, vì nó đòi hỏi
và kích thích trực cảm hình học mãnh liệt. Đó là lý do để cậu bé
9 tuổi Albert Einstein phải thốt lên lời ngợi ca rằng đây là môn
“Hình học thiêng liêng” (The Holy Geometry)! Tình yêu của
Einstein đối với hình học kéo dài suốt cả cuộc đời: Tư duy của
Einstein là tư duy hình học, tư duy cảm thụ. Thuyết tương đối
tổng quát của ông có thể coi như “hình học của vật lý” hay “vật
lý của hình học” – không gian vật lý của Einstein được xây dựng
trên cái khung của Hình học Riemann. Với tư duy thiên về cảm thụ
nồng nàn như thế, Einstein ghét cay ghét đắng những thứ toán học
hình thức sáo rỗng, đến nỗi ông không thể giấu nỗi thất vọng đối
với loại toán học này: “Tôi không tin vào toán học”,
ông nói.
Toán học thật phải là toán học làm rung động
trái tim con người, chẳng khác gì văn chương, nghệ thuật, thơ
ca. Toán học ấy có tồn tại hay không?
Có! Toán học ấy đã từng tồn tại trong trường
phổ thông trước đây. Nhưng những nhà giáo dục mắc bệnh hình thức
đã và đang biến môn toán thành một trò đánh đố tầm thường, đẩy
học trò tới chỗ học toán chỉ để đi thi, sau đó ném hết vào sọt
rác.
Toán học chân chính không phải là những cái
bẫy chuột đánh lừa học trò, mà phải là một ngôn ngữ sinh động,
truyền cảm, giúp học sinh khám phá thế giới.

Buồn biết bao khi chứng kiến học sinh phải
làm những bài tập “khổ sai tích phân” nhưng chẳng hiểu gì về ý
nghĩa tích phân. Đối với những học sinh này, toán chỉ là những
mẹo vặt chán ngấy, một hình thức “khổ sai trí tuệ”.
Buồn hơn nữa, khi một thầy giáo dạy toán nói:
“Tôi thích dạy Hình học giải tích hơn Hình học Euclid, vì đỡ
phải vẽ hình. Vẽ hình thì thầy cũng khổ mà trò cũng khổ”.
Nếu Descartes sống lại để nghe giáo viên này
“ca ngợi” môn hình học của ông theo kiểu đó, ông sẽ vô cùng tủi
thân, vì vô tình công trình sáng tạo vĩ đại của ông lại trở
thành một thứ khoa học vô cảm thảm hại đến như vậy.
Trộm nghĩ, khổ như thế thì học để làm gì?
Không cảm thụ được hình thì học hình để làm gì? Tại sao lại chấp
nhận nhồi nhét kiến thức vô cảm vào đầu học trò như thế? Tại sao
không mua những chương trình giải toán hình học giải tích mà
“enter” luôn trên computer có phải đỡ khổ hơn không?
Sự lệch lạc trong định hướng giáo dục – vinh
danh “tên đầy tớ” và bỏ quên món quà trực giác – trước mắt sẽ
gây ra tình trạng căng thẳng vô nghĩa trong học tập, làm khổ học
sinh và phụ huynh học sinh, … nhưng nhìn rộng ra toàn thế giới
và nhìn xa về tương lai, nó chứa đựng một mối nguy tiềm tàng:
Nó dần dần làm thui chột giá trị nhân văn
trong khoa học, trong văn hoá, trong đạo đức, và sẽ dẫn loài
người tới một thế giới mà ở đó, robots và những sản phẩm khác do
con người tạo ra có thể chống lại chính con người.
Dường như dự cảm thấy khuynh hướng phi nhân
văn trong nền văn minh kỹ trị ngày càng tăng lên, Albert
Einstein một lần nữa phải lên tiếng nhắc nhở: “Tiến bộ công
nghệ giống như một chiếc rìu nằm trong tay một tên tội phạm bệnh
hoạn!”.
Ngày 06/06/2011
PVHg
Nguyên văn:
““C’est par la logique qu’on démontre; c’est par
l’intuition qu’on invente”
The intuitive
mind is a sacred gift and the rational mind is a
faithful servant. We have created a society that honors
the servant and has forgotten the gift.
http://quote.com.bd/quote/reason.html
27.05.2011
Phạm Việt Hưng