THÍ NGHIỆM TURING
Xưa nay,
loài người luôn yên chí rằng mình là những sinh vật ‘thượng đẳng”,
hơn hẳn mọi giống loài khác. Nhưng niềm tin ấy đang bị đe doạ bởi
sự xuất hiện của một “giống loài” mới: robots với bộ óc là computer!
Ngay từ
những năm 1950, Alan Turing, một trong những cha đẻ của computer,
đã khẳng định rằng sẽ đến lúc computer thông minh như con người.
Thực tế diễn ra có vẻ như còn chứng tỏ computer có thể “thông minh
hơn” con người: Năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ
Garry Kasparov! Đó là lúc trường phái “trí thông minh nhân tạo”
– AI (Artificial Intelligence) – ăn mừng. Nhưng không chỉ AI ăn
mừng: rất nhiều người khác cũng bị lây nhiễm tâm lý sùng bái computer,
sùng bái khoa học, sùng bái máy móc. Số người này rất đông đúc (có
lẽ chiếm đa số), bao gồm cả những người giỏi giang nhất, uy tín
nhất, tạo nên một xu thế thời đại khó cưỡng nổi – thời đại kỹ trị.
Trong thời đại này, khoa học vật chất được tôn lên thành “chúa tể”
của tri thức, đẩy các lĩnh vực văn hoá nhân văn vào thế lép vế,
dẫn tới một sự mất cân bằng nghiêm trọng trong đời sống nhân loại.
Mất cân bằng sinh thái, bầu khí quyển bị hâm nóng, thiên nhiên nổi
giận, môi trường bị ô nhiễm, năng lượng hạt nhân trở thành mối đe
doạ, GDP tăng trưởng nhưng đạo đức suy đồi, khủng hoảng tội ác,
phân hoá giầu nghèo đến mức cùng cực – trong khi có những kẻ cất
giữ hàng tỷ đô-la trong ngân hàng, của cải đổ đi không hết thì vẫn
có trên 1 tỷ người trên thế giới đang sống trong tình trạng đói
rét, bệnh tật, …
Nguồn
gốc sâu xa của tình trạng mất cân bằng đó là sự thiếu hiểu biết
về bản chất con người.
Con người
đơn thuần chỉ là kết quả của sự tiến hoá sinh học hay là một thực
thể tâm linh – “một cây sậy có tư tưởng” như Pascal định
nghĩa ?
Liệu học
thuyết Darwin và những lý thuyết tiến hoá hiện đại khác có giúp
chúng ta hiểu rõ bản tính người hay không? Bản tính người thực sự
là cái gì?
Thuyết
tiến hoá nói rằng đặc trưng của loài người là ở chỗ biết sáng tạo
ra công cụ lao động. Nhưng lý thuyết này đang trở nên quá nghèo
nàn trước những thành tựu của khoa học computer, bởi việc chế tạo
ra công cụ thực ra chỉ là một biểu hiện của trí thông minh vượt
trội, mà computer cũng sẽ thông minh không thua kém con người.
Vậy chỗ đứng thật sự của con người ở đâu?
Douglas
Hofstadter, trong cuốn sách nổi tiếng từng đoạt Giải Pulitzer năm
1980 của ông, “Gödel, Escher, Bach”, đã tìm ra một phản đề
tuyệt vời: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình
hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ
yếu của tư duy thực sự”. Nói một cách dễ hiểu: đâu là chỗ của
máy móc thì đó không phải là chỗ để tính người lộ rõ.
Từ phản
đề ấy, lập tức suy ra rằng tư duy đánh cờ không còn nằm trong vùng
tư duy đặc trưng nhất của tính người nữa, vì Deep Blue đã đánh thắng
vua cờ! Đây là một sự kiện làm đảo lộn vai trò của cờ vua nói riêng
và là một cột mốc quan trọng trong lịch sử nhận thức của con
người về chính bản thân mình. Xem thế đủ thấy việc hiểu bản
chất thật sự của con người hoá ra không đơn giản như ta tưởng.
Chính
vì không hiểu rõ chính mình là gì nên con người mới sùng
bái những tri thức khoa học vật chất đến mức thái quá, từ đó tạo
ra một thế giới mất cân bằng nghiêm trọng như hiện nay. Dường như
linh cảm được điều đó nên từ cách đây hơn nửa thế kỷ, Albert Einstein
đã lên tiếng cảnh báo: “Hãy thận trọng đừng biến tri thức thành
chúa tể của chúng ta, nó có … sức mạnh cơ bắp nhưng không có nhân
tính”.
Đó là
lúc Einstein đề cập tới những tri thức của nền văn minh kỹ trị –
tri thức tạo ra của cải vật chất, máy móc, súng ống, …
Tuy nhiên,
có những tri thức không có sức mạnh cơ bắp nhưng giầu nhân tính.
Những tri thức này nằm ở đâu? Nói cách khác: Bản chất đích thực
của con người nằm ở đâu?
Các bậc
thức giả đang ra sức tìm kiếm câu trả lời.
Brian
Christian, tác giả cuốn “The Most Human Human”
(Người người nhất), gợi ý: Hãy khám phá bản chất người từ chính
sự khác biệt giữa con người với computer!
Học giả
David Shenk bình luận: “Máy móc đã trở nên thông minh đến nỗi
nó buộc chúng ta phải có một cái nhìn hoàn toàn mới đối với câu
hỏi thông minh là gì và con người là gì”.
Một học
giả khác thốt lên: “Ai mà ngờ được rằng cách tốt nhất để hiểu
con người lại là nghiên cứu chính những sản phẩm bắt chước con người”.
Thật vậy,
muốn thấy rõ tính người nằm ở đâu, hãy nghiên cứu computer để xem
chúng khác chúng ta ở chỗ nào. Chỗ khác biệt ấy chính là chỗ hơn
hẳn của con người! Để làm việc này, hãy theo dõi một sự kiện được
gọi là “Thí nghiệm Turing” (Turing Test) do cộng đồng AI
tổ chức hàng năm.
Thay vì
tranh cãi về mặt lý thuyết, Turing, ngay từ thời của ông (những
năm 1950), đã đề xuất một kiểu thí nghiệm, nhằm chứng minh computer
sẽ thông minh như con người. Đó là một cuộc thi đấu giữa hai đấu
thủ: một bên là computer, một bên là con người. Hai đấu thủ sẽ phải
trả lời các câu hỏi do một ban giám khảo đưa ra. Các câu hỏi này
không có bất cứ một hạn chế nào: từ chuyện vặt vãnh trong đời thường
cho tới những sự kiện lớn lao của khoa học, lịch sử, văn hoá, nghệ
thuật, triết học,… Chẳng hạn: Bạn thích món ăn gì nhất? Thời tiết
hôm nay ra sao? Sydney có đẹp bằng Paris không? Godel là ai? Hạnh
phúc là gì? Tình yêu là gì? Tranh Monet có đẹp hơn tranh Picasso
không? “Ode to Joy” có phải là nhạc phẩm vĩ đại nhất không? … Để
đảm bảo công bằng, hai đấu thủ được đặt trong hai phòng kín để ban
giám khảo không thể nhận biết bên nào là computer, bên nào là người,
nhưng tuỳ theo nội dung của các câu trả lời, ban giám khảo sẽ bỏ
phiếu đoán nhận bên nào là computer, bên nào là người. Kết luận
của ban giám khảo dựa trên đa số phiếu, giống như bầu cử. Nếu ban
giám khảo đoán nhận sai – lẫn lộn computer với người – thì đó là
bằng chứng chứng tỏ computer thông minh như người.
Turing
dự đoán vào năm 2000, computer sẽ đánh lừa được 30% số giám khảo
sau 5 phút trò chuyện. Với kết quả đó “người ta sẽ có thể nói
về tư duy của máy móc mà không thấy bị mâu thuẫn”, ông nói.
Nhưng
Thí nghiệm Turing năm 2000 không xẩy ra như Turing dự đoán. Năm
2008, trong thí nghiệm diễn ra tại Reading ở Anh, suýt nữa thì dự
đoán của Turing trở thành sự thật – chỉ còn thiếu đúng một lá phiếu
nữa thì chương trình máy tính đã đánh lừa được ban giám khảo. Nếu
chương trình đánh lừa được ban giám khảo thì nó sẽ được trao một
giải thưởng mang tên “The Most Human Computer” (Computer người nhất).
Ngược lại, nếu phần thắng thuộc về người tham gia thí nghiệm thì
người này sẽ được trao giải thưởng “The Most Human Human” (Người
người nhất). Nếu có vài người cùng tham gia thí nghiệm thì người
nào được nhiều phiếu nhất sẽ được trao phần thưởng đó.
Nhiều
người đã đoạt giải “Người người nhất”, vì Thí nghiệm Turing được
tiến hành từ những năm 1990, nhưng phải đợi mãi đến năm 2009 thì
giải thưởng “Computer người nhất” mới lần đầu tiên được trao cho
David Levy – một trong những tên tuổi lớn về lập trình cho cờ vua
trong thập kỷ 1980, trước khi ra đời chương trình Deep Blue trong
thập kỷ 1990.
Levy là
người cổ võ điên cuồng cho khoa học AI. Ông đã viết cuốn “Love and
Sex with Robots” (Yêu và làm tình với robots) để trình bầy tư tưởng
của mình. Không quá khó để hiểu được khái niệm “làm tình với robots”
nhưng sẽ rất khó để hiểu được khái niệm “yêu robots”, nếu chữ “love”
được hiểu như một tình yêu đích thực, chẳng hạn như tình yêu giữa
Marius và Cosette trong “Những người khốn khổ” của Victor Hugo.
Tại sao
Levy có tư tưởng thái quá như vậy? Có lẽ vì ông không hiểu bản chất
đích thực của con người là gì. Nhưng tại sao lại trách Levy trong
khi bỏ qua Turing?
Turing
là một thiên tài có số phận bi thảm: Ông bị kết án tù vì quan hệ
đồng tính (thời đó luật pháp của Anh coi quan hệ này là một tội
hình sự). Ra tù ông phẫn chí rồi tự tử. Nhưng nghịch lý lớn nhất
trong đời ông có lẽ nằm ngay trong học thuật: ông là tác giả của
bài toán “Sự cố dừng” (The halting problem), chỉ ra rằng computer
có những hạn chế không thể vượt qua được, như một “khuyết tật bẩm
sinh” của bất kỳ một hệ logic nào. Nhưng cũng chính Turing lại là
người đề xuất tư tưởng coi computer như một cỗ máy vạn năng có thể
thay thế con người.
Nghịch
lý đó cũng chính là nghịch lý của nền văn minh kỹ trị: trong khi
tư tưởng của Turing thúc đẩy khoa học computer phát triển không
ngừng thì đồng thời nó cũng khuyến khích tinh thần sùng bái máy
móc đến mức hạ thấp vai trò của con người, sùng bái tư duy hình
thức đến mức hạ thấp tư duy cảm xúc, sùng bái giá trị vật chất đến
mức hạ thấp các giá trị nhân văn, … kết quả là đưa xã hội loài người
đến trạng thái mất cân bằng và bị đe doạ bởi một thế giới đầy ắp
những sản phẩm do chính con người tạo ra.
Nhưng
khoan hãy kết tội một thiên tài.
Chẳng
phải Turing đã tiên đoán chính xác rằng máy móc có thể thông minh
như con người đó sao? Chẳng phải thí nghiệm Turing đã thành công
đó sao?
Vâng,
thiên tài của Turing là điều không thể chối cãi, nhưng Thí nghiệm
Turing, thay vì làm cho những người sâu sắc sùng bái máy móc, họ
đặt vấn đề hoàn toàn ngược lại – thí nghiệm ấy chỉ chứng tỏ sự ấu
trĩ trong nhận thức về bản chất của trí thông minh:
Một, trí
thông minh của con người tuy có giới hạn nhưng hình thức biểu lộ
của nó lại vô hạn, do đó không thể kiểm chứng nó bằng một tập hợp
giới hạn các câu hỏi, bất kể tập hợp đó rộng chừng nào. Bản thân
việc đề xuất một thí nghiệm thử thách trí thông minh thông qua một
tập hợp giới hạn các câu hỏi đã là một sai lầm ấu trĩ trong việc
nhận thức khả năng biểu lộ của trí thông minh.
Hai, trí
thông minh của con người hơn hẳn computer ở chỗ nó không chỉ nhận
thức được những đối tượng đo được, mà còn nhận thức được những khái
niệm không đo được, hoặc những khái niệm vô hình, vô ảnh, vô ngôn
– không thể diễn tả được bằng bất cứ một thứ ngôn ngữ nào, mà chỉ
có thể quán tưởng bằng chiêm nghiệm, trực giác, thậm chí bằng sự
lặng thinh. Computer dựa trên nguyên lý số hoá và logic hình thức,
không thể nhận thức cái không đo được và cái không tuân thủ logic
hình thức. Turing là thiên tài trong việc khám phá những bí mật
của logic hình thức nhưng xem ra ông không hiểu thấu những khái
niệm tư duy trực giác, tư duy quán tưởng.
Tuy nhiên,
có người lý sự rằng thực ra vẫn có thể số hoá những khái niệm vốn
không thể đo được. Chẳng hạn, vẻ đẹp của phụ nữ đã được số hoá trong
các cuộc thi hoa hậu đấy thôi. Từ đó computer có thể chứng minh
người này đẹp hơn người kia, và rồi với cái kiểu số hoá như thế,
sẽ đến lúc computer chứng minh được cái này đẹp hơn cái kia, cái
này tốt hơn cái kia, v.v. Chẳng phải David Levy đã nghĩ đến chuyện
số hoá tình yêu đó sao?
Liệu có
thể số hoá tình yêu không?
Liệu có
thể số hoá nghệ thuật không?
Liệu có
thể số hoá mọi tri thức của con người không?
Liệu computer
có thể thực sự thay thế con người không?
Liệu computer
có thể có nhân tính không?
Câu chuyện
Deep Blue đánh thắng vua cờ Kasparov sẽ đưa ra một câu trả lời thú
vị. Trước khi tìm hiểu câu chuyện đó, cần biết rằng cờ vua không
chỉ được coi là một môn thể thao trí tuệ, mà đã từng có một thời
được coi là một lĩnh vực nghệ thuật bậc thầy “có tất cả mọi vẻ đẹp
của nghệ thuật”.
Nhưng
xin dành câu chuyện đó cho bài kỳ sau:
“Môn
thể thao trí tuệ có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”!
25.05.2011
Phạm Việt Hưng
|