Ngày nay ta thường nghe tin về những chất phóng
xạ giết người hay các nạn nhân bị mắc bệnh ung thư vì chất phóng xạ xuất
phát từ những vụ thử vũ khí hạt nhân... Tuy nhiên cũng
chất phóng xạ đó, lúc đầu chỉ dùng để chữa trị ung thư
Sự khám phá ra tia X bởi Wilhelm tháng 11 năm
1895 tượng trưng cho cuộc cách mạng trong thế giới Y khoa. Từ đó về sau,
ta có thể "nhìn bên trong" cơ thể con người.
Và sự khám phá ra chất phóng xạ nhân tạo do Irène và Frédéric
Joliot-Curie vừa cho được khả năng chế tạo những đồng phân phóng xạ của
tất cả những ngyên tố thiên nhiên vừa cho phép ngành Y khoa Hạch Nhân ló
dạng. Những đồng phân cho ra những ứng dụng khác nhau, từ những nghiên
cứu Y học cho đến những áp dụng chẩn đoán và trị liệu.
Những năm đáng ghi nhớ
1895 :Wilhelm Conrad Röentgen (Ðức) khám phá tia X và khả
năng chụp hình bằng tia X,
1896 tháng 7, Bs Victor Despeignes (Lyon) báo tin sự
trị liệu ung thư đầu tiên bằng tia X
1897 Bs Antoine Béclère đặt máy tia X đầu tiên trong một bệnh viện tại
Paris.
1898 tháng 12, Pierre và Marie Curie khám phá chất phóng xạ Radium.
1900 Hai người Ðức Otto Walkhof và Friedrich Giesel báo cáo sự quan sát
của họ kết quả về sinh học của chất Radium trên da như tia X.
1901 Pierre Curie và Henri Becquerel công bố về "Tác dụng vật lý của
Radium" Một bác sĩ chuyên về da ở bệnh viện Saint Louis Paris, Henri
Danlos, công bố kết quả của sự điều trị bệnh Lupus bằng Radium.
Các bác sĩ thử nghiệm càng lúc càng nhiều trên các bệnh khác.
Perthes, người Ðức, bắt đầu kỹ thuật chữa bằng phóng xạ
1904-1906 Jean Bergonié và Louis Tribondeau chứng minh rằng những tế bào
ung thư nhạy cảm hơn những tế bào lành mạnh. Rồi họ đặt nền tảng về sinh
học đầu tiên cho sự trị liệu bằng tia X.
1905 Sự hiểu biết về tác dụng tốt đẹp của tia Radium để trị các bứu của da
và cổ tử cung, đó là sự ra đời của Curiethéraphie (khoa trị liệu Curie)
1906 Armet de Lisle xí nghiệp Radium ứng tiền cho sự thành lập phòng thí
nghiệm để nghiên cứu về những tác dụng sinh học và y học của Radium. Tạo
ra khoa trị liệu Radium. (Radiumthérapie)
1909 tháng 12, Ðại học Paris và Viện Pasteur quyết định xây Viện Radium.
1914-1918 Marie Curie phụ tá Antoine Béclère với chức vụ trưởng khu tia X
cho quân đội.
1918 Thành lập hội Pháp-Anh-Mỹ chống ung thư.
1920 Thành lập tổ chức Curie
1921-1928 Thành lập 21 trung tâm chống ung thư cho nhà thương
Paul-Brousse ở Villejuif
1923 Georg de Hevesy (Suède, Thụy Ðiển) dùng những chất đồng phân như là
những vết hóa sinh (đặc biệt cho thực vật), một phương cách mà ông đã
tưởng tượng năm 1913
1924 Hai y sĩ Mỹ, Blumgart và Weiss, lần đầu tiên dùng vết Radium C để
tính tốc độ tuần hoàn máu từ cánh tay này sang cách tay kia của một
người.
1934 Irène và Frédéric Joliot-Curie khám phá ra chất phóng xạ nhân tạo
|