Những bài cùng tác giả
Nhóm nghiên cứu dự án:
Trưởng nhóm: Nguyễn Hòa
Phó Trưởng nhóm: Trần Đình Bá
Thành viên : Ngô Đào Nam
Thành viên : Đào Bá Sơn
Và những thành viên tham gia…
Dự án đã được gởi đến Bộ Giao
thông Vận tải
===========================
I- Chương Một
II - Chương Hai
III - Chương Ba- Bốn - Hết
===========================
MỤC LỤC
Tại sao vấn đề Đường sắt Việt Nam lại thành “vấn
đề“?
1 - Chương Một
NGHIÊN CỨU KHẢ THI MỞ RỘNG VÀ ĐIỆN KHÍ HÓA ĐƯỜNG SẮT
(ĐS) VIỆT NAM
1.1 - Thực trạng giao thông tác động đến dự án.
1.2 - Đường sắt Việt Nam
Thế giới phân loại ĐS cao tốc (ĐSCT).
Các phương án - giải pháp đang được nghiên cứu cho
ĐS Việt Nam.
Việc lựa chọn mô hình hiện đại ĐS ở VN.
1.3 - Các giải pháp đường sắt Việt Nam và tính khả
thi.
Tại sao vấn đề Đường sắt Việt Nam lại thành “vấn
đề“?
Tại những quốc gia phát triển trên thế giới, phương
tiện giao thông đường sắt (PTGT ĐS) luôn được khẳng
định những ưu điểm so với các loại hình PTGT khác.
Đó là khả năng vận chuyển khối lượng lớn, đi xa, tốc
độ cao. Hiện nay, ĐS cao tốc Nhật Bản đang giữ kỷ
lục về tốc độ khai thác lớn nhất: tàu Shinkansen có
tốc độ 350 km/h. Ngành GTVT ĐS lại ít bị ảnh hưởng
của thời tiết, thích hợp với nhiều tầng lớp dân cư,
ít chiếm dụng diện tích đất. Với cùng khối lượng vận
chuyển, đường sắt (ĐS) chỉ chiếm bề rộng đất là
13,7m, trong khi các phương tiện đường bộ lại chiếm
tới 29m. Theo đánh giá của các chuyên gia, ĐS là
PTGT ít gây ô nhiễm không khí với lượng khí thải CO2
chiếm 1%, ô tô tải là 30%. Có độ an toàn cao, phương
tiện ĐS có mức độ gây ra tai nạn là 1%, trong khi ô
tô con là 24%, xe buýt và ô tô tải là 2,5% và tàu
thủy nội địa là 2%. Mức tiêu hao nhiên liệu của ĐS
cũng thấp hơn hẳn so với các phương tiện vận tải
khác, ví dụ nếu ô tô tiêu hao tới 648 kcal/hk-km, xe
buýt 171 kcal/hk-km, thì tàu hỏa cao tốc và tàu điện
ngầm chỉ tiêu hao 103 kcal/hk-km. Trong lãnh vực vận chuyển hành khách đô thị, PTGT
bánh sắt lại càng có nhiều ưu điểm so với phương
tiện vận tải công cộng đường bộ. ĐS có năng lực vận
tải hành khách lớn, tốc độ vận chuyển nhanh hơn
(25-60 km/h so với tốc độ 15-25 km/h của xe buýt),
êm thuận hơn, không ồn, ít ô nhiễm và giảm thời gian
hành trình từ 50-70%. Năng lượng tiêu hao của PTGT
bánh sắt trong vận chuyển đô thị ít hơn, chỉ bằng
1/5 phương tiện đường bộ nếu vận chuyển cùng một số
lượng hành khách /km. Chính vì đánh giá được những
lợi thế trên, trong hoạch định hệ thống giao thông
(HTGT) đô thị tại các nước công nghiệp phát triển,
người ta đều dự tính thị phần vận tải bánh sắt cao
hơn các phương tiện khác: dân số từ 1-2 triệu người,
thị phần vận tải bánh sắt chiếm 50-60%; dân số từ
2-5 triệu người, thị phần này chiếm 60-70% và dân số
trên 5 triệu người, thị phần vận tải bánh sắt chiếm
tới 75-80%. So với các nước phát triển về ĐS như Hoa Kỳ
(226.800km), Nga (85.500km), Trung Quốc (71.897km),
CHLB Đức (36.642km), Pháp (31.423km)... thì tổng
chiều dài của ĐS Việt Nam vẫn còn ít (3200km). Trong
đó có 2.214km khổ 1.000mm (84,1%), 161 km khổ
1.435mm (6,1%), 220km đường lồng 1.000mm và 1.435mm
(8,4%) và 506 km đường tránh và đường nhánh. Hiện
nay, mới có 31/64 tỉnh thành có ĐS đi qua. Ở VN chưa
có mạng ĐS phục vụ vận tải công cộng tại các thành
phố lớn. Cơ sở hạ tầng và đầu máy toa xe nói chung
còn nghèo nàn, lạc hậu, các thông số kỹ thuật giữa
đường ray và đầu máy toa xe không còn phù hợp.
(Nguồn ĐSVN và Bộ GTVT) Làm gì để vừa nhanh chóng hiện đại được ĐS nhằm giải
quyết bài toán vận tải, giảm quá tải để giảm thiểu
tai nạn giao thông, cũng như khai thác hết tiềm năng
hiện có của hệ thống ĐS hiện tại vừa đáp ứng nhu cầu
tăng trưởng kinh tế xã hội, vừa cải thiện các điều
kiện an sinh xã hội, phục vụ các hoạt động QP – AN
trên mặt trận giao thông ĐS trong tầm Chiến lược
Quốc gia? Nhóm nghiên cứu đặt làm chủ đề cho Dự án
nghiên cứu này. Bắt đầu từ nghiên cứu toàn cảnh HTGT Việt Nam, HTGT
trên mặt đất gồm đường bộ và ĐS, phân tích hiện
trạng và năng lực của từng loại để tìm ra nguyên
nhân. Cùng lúc khảo sát việc ùn tắc giao thông, các
vấn đề về tai nạn giao thông hiện nay để có hướng đề
xuất dự án mang tính khả thi và mang lại hiệu quả
trên các mặt. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có tạm thời
đưa ra so sánh những phương án đầu tư cho hệ thống
hiện tại trên những cơ sở lý thuyết cũng như những
đề xuất được giới chuyên môn đang thảo luận từ đó có
kiến nghị riêng trong báo cáo này. Không chỉ quan tâm đến các vấn đề kỹ thuật và kinh
tế, nhóm nghiên cứu còn quan tâm đến các tác động về
kinh tế, xã hội, môi trường, mở ra thị trường đầu tư
ngay trong nước. Quan tâm đến tác động môi trường
cũng được đề cập để đảm bảo việc khai thác gây tác
động xấu ít nhất trên toàn hệ thống và cuộc sống
cộng đồng. Những số liệu và giải pháp sẽ được nghiên cứu và
thảo luận chi tiết hơn sau khi được chấp thuận bởi
các cơ quan chức năng, chúng tôi sẽ kết hợp với các
nhà chuyên môn, các cơ quan quản lý, các đơn vị tư
vấn trong ngoài nước cũng như các tập đoàn có kinh
nghiệm về kỹ thuật và tài chính để hoàn chỉnh báo
cáo này.
1 - Chương Một
1 - Chương Một
Nghiên cứu và khả thi mở rộng và
điện khí hóa đường sắt (ĐS) VN
1.1 - Thực trạng giao thông tác động đến dự án.
1.2 - Đường sắt Việt Nam
Thế giới phân loại ĐS cao tốc (ĐSCT).
Các phương án - giải pháp đang được nghiên cứu cho
ĐS Việt Nam.
Việc lựa chọn mô hình hiện đại ĐS ở VN.
1.3 - Các giải pháp đường sắt Việt Nam và tính khả
thi.
Nghiên cứu và khả thi mở rộng và
điện khí hóa đường sắt VN
1.1 - Thực trạng
giao thông tác động đến dự án.
HTGT cũng như các dịch vụ hạ tầng cơ sở khác là
những đầu vào trung gian. Nó giúp đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội để
giảm mức độ bất bình đẳng về phát triển giữa các
vùng. Nói cách khác, giao thông vận tải đóng góp vào
sự phát triển kinh tế thông qua việc cung cấp các
tiện nghi sinh hoạt thiết yếu và nâng cao chất lượng
cuộc sống. Đối với các doanh nghiệp, HTGT vận tải
tốt có vai trò rất lớn tới các hoạt động sản xuất
kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận
đến các nguồn lực sản xuất như vốn, lao động, nguyên
vật liệu, cũng như tới thị trường tiêu thụ, góp phần
làm giảm chi phí kinh doanh. Phát triển HTGT sẽ ảnh hưởng đến cả ba nội dung của
phát triển bền vững là kinh tế, xã hội và môi
trường.

Hình 1: Tác động của giao thông vận tải đến phát
triển bền vững Như vậy, HTGT vận tải tác động rất lớn đến phát
triển bền vững của một đô thị, một vùng hay một quốc
gia nói chung. Là một trong các yếu tố cơ bản của
môi trường đâu tư, vai trò quan trọng trong quyết
định lựa chọn địa điểm đầu tư. Theo kết quả điều tra
về môi trường đầu tư của Ngân hàng thế giới năm 2005
, giao thông vận tải được các doanh nghiệp cho là
yếu tố thứ ba cản trở lớn nhất đến hoạt động kinh
doanh. So với các nước trong khu vực như Philipines,
Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc và Malaysia, giao thông
vận tải ở Việt Nam còn đươc coi là yếu tố cản trở
lớn hơn đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Theo
kết quả điều tra này có đến 24% các doanh nghiệp ở
Việt Nam cho rằng giao thông vận tải là một rào cản
đối với hoạt động kinh doanh. Đường sá không đủ,
chất lượng đường thấp đẩy chi phí lên cao. Ở Brazil
và Nga, do kết cấu hạ tầng đường bộ tốt nên chi phí
vận chuyển chiếm khoảng 15% giá hàng trong các cửa
hiệu ở Nga và khoảng 20 đến 40% ở Brazil. Trong khi
đó ở Tây Âu và Hoa Kỳ hệ thống cơ sở hạ tầng giao
thông tốt hơn nên chi phí vận tải chỉ chiếm khoảng
đến 7 – 8%, mặc dù chi phí dịch vụ ở các nước này
cao hơn nhiều so với ở các nước đang phát triển. Ở
Việt Nam hiện nay chưa có đánh giá nào về yếu tố
này, tuy nhiên rõ ràng kết cấu hạ tầng đường bộ của
nước ta không thể so sánh với Nga và Brazil. Cơ sở hạ tầng giao thông của Việt Nam còn lạc hậu
với quy mô rất nhỏ, tiêu chuẩn kỹ thuật thấp và năng
lực hạn chế.
 Hình 2: So sánh mật độ đường của Tp.HCM và Hà Nội
với một số thành phố khác trên thế giới Tắc nghẽn giao thông luôn là vấn đề phổ biến ở các
đô thị lớn trên thế giới. Bản chất của tắc nghẽn
giao thông là cung về cơ sở hạ tầng giao thông không
đáp ứng được nhu cầu. Thông thường nhu cầu về cơ sở
hạ tầng giao thông vào thời điểm từ 6 – 8 giờ sáng
và 4 – 7 giờ chiều là rất lớn. Khi đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng giao thông các nước sẽ dựa trên nhu
cầu đi lại và khả năng đáp ứng nhu cầu này. Nếu có
đủ nguồn lực các nước sẽ hướng tới việc đầu tư để
đáp ứng nhu cầu cao nhất, tuy nhiên không phải nước
nào cũng có nguồn lực do vậy họ phải lựa chọn đáp
ứng nhu cầu ở mức trung bình hoặc thậm chí là thấp
hơn. Như vậy, khi lựa chọn phương án phải tính tới
những giờ cao điểm sẽ làm tắc nghẽn giao thông là
không thể tránh khỏi. Ở Việt Nam, tắc nghẽn giao thông chưa tới mức nghiêm
trọng như ở các thành phố Bangkok, Manila hay
Jarkata, tuy nhiên tắc nghẽn giao thông ngày càng
gia tăng và đã bắt đầu tác động không nhỏ đến sự
phát triển kinh tế - xã hội. Do phát triển ở nhiều giai đoạn nên quy mô khổ đường
khác nhau, các tuyến đường chính, các nút giao thông
đều giao nhau cùng mức nên hạn chế tốc độ, các tuyến
đường này đã quá tải thường xảy ra ách tắc giao
thông tại các cửa ngõ ra vào tại các thành phố lớn.
Hơn nữa tại các thành phố này vẫn chưa có một hệ
thống đường vành đai hoàn chỉnh nên các phương tiện
vận tải hàng hoá, hành khách trung chuyển qua đầu
mối Hà Nội, Tp.HCM phải đi vào nội thành, tạo sức ép
lớn lên HTGT. Các thành phố có quy mô như Hà Nội, Tp.HCM phải có
các phương tiện vận tải công cộng có sức chở lớn như
tàu điện ngầm, ĐS, ĐS trên cao và hệ thống xe buýt.
Tuy nhiên do cơ sở hạ tầng thiếu và thói quen đi lại
nên các PTGT công cộng chưa phát huy được hiệu quả.
Việc xây dựng và quản lý thực hiện các quy hoạch
phát triển giao thông theo vùng lãnh thổ đóng vai
trò quan trọng. Khung quy hoạch hiện tại ở Việt Nam
bao gồm một số lượng lớn các quy hoạch phát triển,
trong đó có nhiều quy hoạch chồng chéo về địa bàn,
phạm vi và chuyên ngành (Quy hoạch giao thông vận
tải quốc gia, quy hoạch giao thông vận tải vùng, quy
hoạch giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm,
quy hoạch phát triển giao thông của các tỉnh, thành
phố). An toàn giao thông hiện là một trong những vấn đề
lớn ở Việt Nam. Tỷ lệ tai nạn ở Việt Nam so với các
nước khác là rất cao. Trong năm 2005, tỷ suất tử
vong do tai nạn giao thông ở Việt Nam là 27 người
trên 100.000 dân, cao hơn mức trung bình của thế
giới 8 người và tỷ lệ tử vong trên 10.000 phương
tiện đăng ký là 8,3 người, tỷ lệ bị thương 10,7
người trên 10.000 phương tiện đăng ký và tỷ lệ tai
nạn là 12 trường hợp trên 10.000 phương tiện đăng
ký. Tỷ lệ này ở với các nước công nghiệp phát triển
trong phạm vi từ 1- 2 người chết trên 10.000 phương
tiện đăng ký. Có thể nhận thấy Việt Nam là một trong
những nước có môi trường đường bộ nguy hiểm nhất ở
Đông Nam Á và trên thế giới. Tai nạn giao thông đang
là một thách thức rất lớn đối với quá trình phát
triển bền vững của Việt Nam.

Ùn tắc giao thông ở các đô thị (Ảnh nguồn VNN) Cũng như các thành phố lớn khác ở Châu Á, giao thông
luôn là một vấn đề được nhiều người dân cũng như các
nhà hoạch định chính sách quan tâm. Nguyên nhân tai nạn giao thông ở Việt Nam do sự quá
tải về giao thông kèm theo là sự gia tăng đột biến
của các PTGT tư nhân trong khi các PTGT công cộng
không đáp ứng. PTGT vận tải công cộng chủ lực trước
hết phải tính đến ĐS, xe buýt, máy bay… Song do lạc
hậu về công nghệ nên ĐS nước ta chỉ còn đáp ứng 8%
thị phần vận tải hành khách và 4% thị phần vận tải
hàng hóa. Đây là nguyên nhân chính và cũng là lối
thoát cho bài toán giao thông phải bắt đầu từ ĐS.
Bảng thị phần các phương tiện vận tải công cộng hoạt
động giao thông an toàn trên toàn quốc.(đơn vị %)
|
Tàu hỏa |
Xe máy |
Máy bay |
Tàu biển |
Tàu sông |
Vận tải hành khách
|
50 |
30 |
10 |
3 |
7 |
Vận tải hàng hóa |
20 |
15 |
5 |
50 |
10 |
Qua bảng biểu trên cho thấy, muốn hoạt động giao
thông ổn định thì thị phần vận tải về ĐS phải đạt
cao nhất về vận chuyển hành khách. Thị phần vận tải
hàng hóa của tàu biển cũng phải đạt cao nhất để giảm
bớt áp lực hàng hóa lên đường bộ. Lúc đó chúng ta mới có điều kiện tập trung lực lượng
phương tiện xe máy phục vụ vận tải hành khách và
hàng hóa trong các đô thị.
1.2 - Đường sắt Việt
Nam trong quá trình lịch sử - Thách thức và cơ hội
Là PTGT vận tải cơ giới ra đời sớm nhất ngay sau khi
vừa có phát minh ra máy hơi nước song loại phương
tiện này “không già” và đang trở thành loại PTGT có
nhiều thế mạnh. Các nước phát triển đã chọn ĐS là
PTGT chiến lược và ưu tiên hàng đầu trong chiến lược
phát triển. Giao thông ĐS có giá trị lớn về kinh tế
và vị trí quan trọng về quân sự nên mỗi quốc gia
chọn cho mình một khổ ĐS rất riêng như một “chìa
khóa quốc gia “ để phòng thủ khi có chiến tranh. Thế
giới hiện đại lấy khổ ĐS 1.435 làm tiêu chuẩn để
thống nhất hóa thiết bị - hòa mạng quốc tế, đó là
thông số kỹ thuật mang giá trị lịch sử - con số tốt
lành lấy từ bề khổ rộng của bánh xe ngựa thời kỳ văn
minh La Mã cổ đại do xe chạy an toàn và tiết kiệm
sức ngựa. Khổ đường 1.435 mm tối ưu về kinh tế kỹ
thuật do tiết kiệm được vật tư và đất đai, dễ dàng
hòa mạng quốc tế, thống nhất hóa tiêu chuẩn các
thiết bị công nghệ. So với các khổ lớn hơn, ĐS 1.435
lại tiết kiệm vật tư hơn khổ 1.676 - 1.600 - 1.520…
nhưng chạy an toàn do khả năng chống lật cao. Ngày
18/5/1990 Pháp đã thử nghiệm thành công ngay trên ĐS
khổ 1.435 bằng tàu TGV đạt tốc độ 513.3 km/h. ĐS cao
tốc công nghệ Shikansen (Nhật Bản), TGV (Pháp), KTX
(Đức)… tốc độ thương mại 350 km/h đều chạy an toàn
trên khổ đường 1.435 này. Nước Nga tự hào có hệ
thống ĐS khổ 1.520 trên toàn quốc chạy rất an toàn
nhưng cảm thấy thua thiệt khi tham gia mạng lưới ĐS
1.435 của châu Âu và châu Á. ĐS nước ta có lịch sử 110 năm do người Pháp khảo sát
và tổ chức thi công, chọn khổ ĐS 1 m và duy trì từ
đó cho đến nay. Trong chiến tranh ĐS nước ta bị tàn
phá nặng nề. Sau hòa bình 1954 ở miền Bắc ĐS được
quan tâm khôi phục. Tuyến ĐS Bắc Nam được thông
tuyến vào ngày 21/12/1976. Trong thời kỳ chiến tranh
1964 đến 1973, trước sự bao vây phong tỏa tuyến
đường biển qua Cảng Hải Phòng, để tiếp nhận được
viện trợ trực tiếp từ các nước trên thế giới thông
qua mạng ĐS liên vận khối XHCN, chúng ta đã làm một
tuyến đường lồng có 3 hàng ray khổ 1.000 + 1.435 để
tàu từ chở hàng quân sự siêu trường siêu trọng trên
khổ đường 1.435 từ Trung Quốc chạy thẳng về đến Gia
Lâm Hà Nội. Đây là loại đường có 1 không hai trong
lịch sử ĐS thế giới phục vụ cho giải pháp tình thế
do Chiến tranh lúc đó. Loại đường này tốn kém hiệu
quả kinh tế không cao, rất khó điều hành và bảo
dưỡng. (Nguồn ĐSVN và Bộ GTVT) Loại ĐS 1 mét vốn chỉ phù hợp cho loại đầu máy hơi
nước và toa xe cỡ nhỏ, đạt được “kỷ lục” hành trình
Bắc Nam 42 tiếng. Sau khôi phục ĐS 1976 đến nay
ngành ĐS Việt Nam đã nỗ lực cố gắng, cải tạo cầu
đường, tín hiệu, rút ngắn hành trình tuyến Bắc Nam
từ 72 tiếng – 52 tiếng - 36 tiếng và 30 tiếng, trên
nhiều cung đoạn đã đạt tốc độ 70 km/h. Song mọi việc
đều có giới hạn của nó, do khổ đường của chúng ta
chỉ 1 mét có khả năng kháng lật kém, khi sử dụng đầu
máy diesel có công suất và tải trọng lớn kéo các toa
xe hiện đại có kích thước lớn sẽ không đạt. Chỉ sau
một thời gian rất ngắn chạy trên tốc độ - hành trình
HN - TP HCM 29 giờ đã xẩy ra vụ tai nạn lật tàu E1
thảm khốc nhất trong lịch sử ĐSVN. Tiếp sau đó là vụ
trật bánh tàu hàng SBN1 làm tắc đường 5 giờ tại
Thành phố Huế và nhiều vụ trật bánh tàu khách ở
Quảng Bình, Đồng Nai… Đặc biệt là gần đây nhất vào
lúc 5.45 phút ngày 26/10/2007 tại Quảng Trị, tàu
hàng mang số hiệu D20E-013 khi chỉ mới húc vào 1 con
trâu đã lật nhào đầu máy và các toa tàu hàng làm tắc
đường nhiều giờ. Qua các vụ tai nạn lật tàu và trật
bánh liên tiếp của ĐS nước ta cho thấy sự rệu rã của
khổ ĐS chỉ có 1 mét.
  Toàn cảnh vụ lật tàu E1 thảm khốc ở Việt Nam (Ảnh
nguồn VNN)
Đánh giá về hiệu quả đầu tư trên vốn nội lực hiện
có:
Năm 2004 – 2005 được coi là thời kỳ ”hưng thịnh” của
ĐSVN từ khi khôi phục ĐS xuyên Việt 1976, tốc độ
chạy tàu đạt kỷ lục hành trình Bắc Nam là 30 giờ,
doanh thu hàng năm là 4.700 tỷ đồng. Song, từ đó đến nay về năng lực kinh doanh: Theo số
liệu của Viện nghiên cứu ĐS đăng trên TCCS số
23-10/11/2007 đặc san Hồ sơ sự kiện, thì hiện nay
chỉ đạt được 8% về hành khách và 4% về hàng hoá.
Doanh thu hàng năm chỉ đạt 4,700 tỷ đồng, chỉ đạt
4,700 / 468 000 trên giá trị tài sản cố định, tức
đạt 1,004% - thấp hơn nhiều lần lãi suất ngân hàng
hàng năm.
Về tính cạnh tranh: Tốc độ Tàu chậm hơn so với PTGT
khác. Từ HN vào TP HCM tàu 30 tiếng- Hàng không 2
giờ -Xe hơi 24 giờ. Tốc độ tàu còn thấp hơn tàu cánh ngầm chạy trên sông
vịnh.
Về giá thành cước phí: Cao gấp đôi giá cước vận tải
đường bộ, đắt gần tương đương với giá cước vận tải
Hàng không trong nước.
Về năng lực vận tải: Không thể đáp ứng nhu cầu vận tải, quá tải và thụ
động trong các dịp lễ tết, các biến động thời tiết.
Về khả năng tạo lợi nhuận Đóng góp cho Nhà nước là thấp trên vốn “nội lực”
27,3 tỷ USD của một doanh nghiệp “khổng lồ“ và thực
tế Nhà nước phải bù lỗ. Rõ ràng khổ ĐS 1 mét hiện nay đã hết giới hạn tăng
tốc, dù sau khi gia cố ĐS bằng tà vẹt BTCT dự ứng
lực song vẫn không thể mạo hiểm vượt qua tốc độ 80
km/h, ngành ĐS đã trở về với hành trình 30 giờ để
đảm bảo an toàn. Từ đó hầu hết các chuyến hành trình
30 tiếng Bắc Nam đều bị chậm. Về chiến lược phát triển kết cấu hạ tầng giao thông,
ngành giao thông vận tải dự kiến phân chia theo khu
vực, trong đó "cốt" là trục dọc Bắc Nam với quốc lộ
1A được mở rộng, nâng cấp toàn tuyến đường Hồ Chí
Minh kết hợp với đường bộ cao tốc Bắc Nam, ĐS Thống
Nhất và tuyến vận tải biển hành khách cao tốc. Trên cơ sở đó, khu vực phía Bắc tạo tuyến ĐS, đường
bộ theo hướng: Hai hành lang và Một vành đai kinh tế
Việt Nam - Trung Quốc, ĐS cao tốc Hà Nội - Vinh, mở
rộng các tuyến thủy, các cảng. Khu vực miền Trung -
Tây Nguyên tập trung vào Hành lang Đông Tây, cảng
trung chuyển Quốc tế Vân Phong. Phía Nam là các tuyến đường bộ cao tốc từ Tp.HCM đi
các vùng, ĐS cao tốc Tp.HCM - Nha Trang, nâng cấp
các tuyến đường thủy khu vực ĐBSCL và xây dựng cảng
hàng không quốc tế Long Thành để trở thành cảng
trung chuyển có sức cạnh tranh trong khu vực. ĐS hướng vào tính chuyên dụng cao, hiện đại hóa sức
kéo và sức chở, tăng tốc độ chạy tàu, mục tiêu đến
2020 có 1.200 đầu máy, 5-53.000 toa xe, trong đó toa
xe khách chỉ chiếm 10%. Mạng lưới ĐS Việt Nam với tổng chiều dài 3.200 km,
tính cả đường nhánh và đường rẽ là 3.400 km nối liền
các khu dân cư, trung tâm văn hoá nông công nghiệp
trừ khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Theo kế hoạch đã được Bộ Giao thông Vận tải phê
duyệt, từ nay đến năm 2020 sẽ đầu tư nâng cấp ngoài
tuyến ĐS Thống Nhất hiện có, còn xây dựng thêm một
tuyến đường đôi riêng biệt (song song ngược chiều
nhau) khổ 1.435, đảm bảo tốc độ trên 200-350 km/h
không phải tránh bất kỳ đoàn tàu nào như hiện nay,
không có bất kỳ giao cắt đồng mức nào và con tàu
chạy hoàn toàn bằng điện. Dự kiến kinh phí đầu tư
cho 1 km ĐS cao tốc là 15-20 triệu USD, toàn tuyến
dự kiến 30-32 tỷ đôla Mỹ. Ngày 31 tháng 1 năm 2007,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm việc với các quan
chức của Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Giao thông Vận tải
và Tổng công ty ĐS Việt Nam. Nội dung xoay quanh vấn
đề ĐS cao tốc. Thủ tướng nhấn mạnh: trong vòng 5-7
năm tới phải quyết tâm hoàn thành tuyến ĐS này,
Chính phủ phải xoay nguồn vốn đối ứng 10% (3 tỷ
USD). Ngày 2 tháng 2 năm 2007, Văn phòng Chính phủ
đã có Thông báo 690/VP-CP truyền đạt ý kiến chỉ đạo
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chấp thuận để Tổng
công ty ĐS Việt Nam làm chủ đầu tư dự án với vốn là
33 tỷ đôla Mỹ xây dựng ĐS Bắc - Nam mới. Để ĐS cao tốc ở Việt Nam sẽ trở thành hiện thực theo
tiến độ đề ra trong quy hoạch, muốn có mạng ĐSCT vào
năm 2020, ngay 2006 đã phải bắt tay xây dựng tuyến
ĐS cao tốc Hà Nội - Tp.HCM. Đây là dự án của quốc
gia đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển giao thông vận tải ĐS đến
năm 2020 đã nêu rõ: ngoài tuyến ĐS Thống nhất hiện
có cần xây dựng thêm 1 tuyến đường đôi riêng biệt
chạy tàu khách cao tốc Bắc - Nam khổ đường 1.435mm
để giảm thời gian chạy tàu từ Hà Nội đến TP Hồ Chí
Minh xuống dưới 10 giờ và có khả năng kết nối với ĐS
liên vận quốc tế. (Nguồn ĐSVN và Bộ GTVT)
Thế giới phân loại ĐSCT như sau: - Dưới 120 km/gọi là ĐS tốc độ thường. - Từ 120 đến 160 km/h được gọi là ĐS tốc độ vừa. - Từ 160-200 km/h gọi là ĐS tốc độ cao, - Từ 200-350 km/h được gọi là ĐSCT. Trên 350 km/h
gọi là ĐS siêu tốc.
Các phương án - giải pháp đang được nghiên cứu cho
ĐS Việt Nam: - 200 km/h đến 250 km/h: Nhóm nghiên cứu xin đề xuất
vì phù hợp với điều kiện VN - 300 km/h đến 350 km/h: Phương án từ các nhà tư vấn
theo mô hình Nhật Bản và Hàn Quốc - 500 km/h đến 550 km/h: Phương án từ các nhà tư vấn
theo mô hình Pháp
Theo đó, việc lựa chọn mô hình hiện đại ĐS ở VN có 3
phương án như sau: - Xây dựng mới ĐS cao tốc công nghệ Shikansen 350
km/h. - Cải tạo ĐS hiện tại thành ĐS tốc độ 160-200 làm cơ
sở cho tiến tới 200-250 km/h. - Xây mới kết hợp với cải tạo ĐS hiện tại thành ĐS
cao tốc. Việc hiện đại mạng lưới ĐS VN từ nay đến năm 2020 là
rất cấp thiết. Chỉ riêng tuyến ĐSCT Hà Nội - TP.HCM đã tốn 40 tỉ
USD, tương đương GDP của cả nước trong một năm. Đó
là chưa kể sai số từ dự toán đến thực tế. Theo ý
kiến của Bộ Tài chính, nhu cầu đầu tư ĐSCT bình quân
hằng năm lên đến hơn 30.000 tỉ đồng, bằng 38,2% mức
chi đầu tư hằng năm trong khi vận tải ĐS chỉ chiếm
hơn 10% thị phần vận tải là không hợp lý. Còn theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bên cạnh nguồn vốn từ ngân
sách, Bộ GTVT phải lựa chọn một chính sách tạo vốn
đầu tư khác thay vì trông chờ vào nguồn ODA. Lý do,
một quốc gia khi có khả năng xây dựng ĐSCT thì sẽ bị
hạn chế vay vốn ODA, vì nguồn vốn này chỉ ưu tiên
cho nước kém phát triển.
1.3 - Các giải pháp
đường sắt Việt Nam và tính khả thi
Để dự án mang tính khả thi cần xem xét các phương án
hiện đại ĐS được đưa ra gần đây để có thể so sánh
với phương án mở rộng và điện khí hóa ĐS bằng phương
án tà vẹt Ba ray. Đánh giá này dựa trên kinh nghiệm
phát triển ĐS của thế giới và thực tiễn của các dự
án gần đây. 1.3.1 - Phương án 1:
Gia cố ĐS khổ 1 mét bằng tà vẹt
BTCT dự ứng lực để chạy tốc độ 120 km/h. Phương án
này do Bộ Giao thông vận tải đưa ra. Với chi phí 24.600 tỷ đồng để thay toàn bộ Tà vẹt
BTCT dự ứng lực khổ 1 mét và ray P65 kg/m. Đã thực
hiện tại khu vực ga Nông Sơn – Quảng Nam bằng cách
sản xuất tà vẹt BTCT dự ứng lực tiêu chuẩn Nhật Bản
khổ 1.067 rút ngắn thành 1 mét, thay mới ray P65
(loại 65kg/m mối hàn cứng).

ĐS khổ 1mét đã được kiên cố hóa ở Quảng Nam (Ảnh nguồn VNN) Song do không thay đổi được bề rộng khổ đường nên hệ
số an toàn chống lật vẫn không cải thiện được, các
lái tàu vẫn không dám mạo hiểm vượt quá 80 km/h. Cho
đến nay ngành ĐS đã thực hiện hành trình 29 tiếng
thành 30 tiếng. Như vậy phương án này không khả thi
gây lãng phí vốn đầu tư nhưng không thể tăng tốc và
không thể đạt thị phần trên 25%.
Giải pháp gia cố ĐS kiên cố trên khổ đường 1 mét với
mục tiêu đạt tốc độ 120 km/h đang gặp phải lời cảnh
báo gần nhất từ ĐS Nhật Bản ngay trong năm 2005: Nhật Bản là một quốc gia có nền kinh tế giàu thứ nhì
thế giới có một mạng lưới giao thông đa phương tiện
gồm hàng không - tàu đệm từ, tàu điện ngầm - mạng
lưới ĐS, đường bộ, đường biển… luôn luôn đáp ứng mọi
nhu cầu vận tải. Nhật Bản vốn rất tự hào về hệ thống
ĐS của họ vận chuyển an toàn hàng tỷ lượt người. Chính phủ Nhật lập Quốc tang và chỉ sau đó ngày
25/12/2005 một chuyến tàu 6 toa chạy với tốc độ 100
km/h lại bị lật làm 4 người chết và 33 người bị
thương. Cả nước Nhật bàng hoàng cay đắng sau khi
nhận ra rằng cơ sở hạ tầng ĐS của một quốc gia có
nền kinh tế giàu có đứng thứ nhì thế giới quá lạc
hậu chỉ rộng có 1.067 mét chiếm 93% tổng chiều dài
ĐS toàn quốc.

Đoàn tàu trên ĐS khổ 1.067 gặp nạn tại Hyogo, phía
Tây Nhật Bản 25/4/2005 khiến ít nhất 104 người chết
và 450 người bị thương. (Ảnh nguồn VNN) Vì vậy gia cố ĐS VN khổ 1 mét bằng tà vẹt BTCT dự
ứng lực Tiêu chuẩn Nhật Bản để chạy tốc độ 120 km/h
là phi kỹ thuật.

Hiện trường vụ tai nạn tàu hỏa trên ĐS khổ 1.067m ở
Nhật hôm 25/12/2005. (Ảnh nguồn VNN) Theo quy hoạch phát triển ĐS từ 2001 đến 2020 sẽ sử
dụng 24 530 tỷ đồng (tương đương 1.6 tỷ USD) gia cố
ĐS khổ 1 mét bằng Tà vẹt Bê tông cốt thép dự ứng lực
tiêu chuẩn Nhật Bản. Cắt ngắn 67mm của thanh tà vẹt tiêu chuẩn ĐS Nhật
Bản để chạy tàu trên địa hình phức tạp của vách núi
quanh co và thời tiết gió mùa và các cơn bão vùng
nhiệt đới ở Việt Nam là hết sức nguy hiểm. ĐS khổ 1.067 Nhật Bản chạy tốc độ 100 km/h đã bị lật
thì ĐS khổ 1 mét (cắt ngắn so với thanh tà vẹt tiêu
chuẩn Nhật Bản 67mm) chạy ở VN 120 km/h sẽ càng nguy
hiểm vì nguy cơ bị lật cao hơn do mô men kháng lật
của ĐS khổ hẹp rất thấp. Như vậy có thể khẳng định rằng: Không thể tăng tốc
đạt 120 km/h ở ĐS 1 mét gia cố bằng tà vẹt BTCT dự
ứng lực cắt ngắn tiêu chuẩn của Nhật Bản. Cần thấy trước điều này để không bị lãng phí 24.500
tỷ đồng khi thực hiện dự án dùng tà vẹt khổ 1 mét
BTCT dự ứng lực cắt ngắn tiêu chuẩn Nhật Bản lắp đặt
trên toàn tuyến, như vậy sẽ “vĩnh cửu hoá sự lạc
hậu” ĐS VN. Như vậy phương án đầu tư này không khả thi.
1.3.2 - Phương án làm mới 1630 km ĐS cao tốc Bắc Nam
tốc độ 350 km/h công nghệ Shikansen của nhóm nghiên
cứu Nhật Bản:
Vốn đầu tư 33 tỉ USD, lớn nhất trong lịch sử đầu tư
của thế giới nhưng không được sử dụng vốn vay ưu đãi
ODA, phải tiêu tốn một quỹ đất đai 50km2, di dời và
tái định cư khoảng 1 triệu dân, thời gian thi công
trên 50 năm. Khi hoàn thành cung vượt cầu khó có thể
hoàn vốn. Do đầu tư trùng lặp vì trên tuyến Bắc Nam
sẽ có 4 tuyến gồm đường bộ cao tốc là QL 1A và đường
Hồ Chí Minh, ĐSCT và ĐS khổ 1 mét. Kinh nghiệm thế giới đã đúc kết ĐSCT chỉ đạt hiệu
quả kinh tế trong cự li hoạt động dưới 500 km. Vì
vậy chưa có tuyến ĐSCT nào dài trên 1000 km. Thực
tiễn là Đài Loan làm 300 km tốn 18 tỷ USD thi công
trên 15 năm thì con số 33 tỷ USD cho 1630 km ĐSCT ở
VN càng xa vời, theo một số chuyên gia kinh tế thì
riêng giá nhân công về ĐSCT: 1 km tốn kém 20 triệu
USD.
Bảng phân tích hiện tượng phi thực tiễn trong dự án
1630km đsct tốc độ 350 km/h – với vốn đầu tư 33 tỷ
USD ở Việt Nam
|
Mỹ |
Nga |
Trung Quốc |
Pháp |
Hàn Quốc |
Dân số |
300 triệu |
250 triệu |
1.3 tỷ |
80 triệu |
40 triệu |
Thu nhập GDP
(tỷ USD) |
20 000 |
10.000 |
15.000 |
8.200 |
1.000 |
Chiều dài ĐSCT
350 km/h |
500 km |
Chưa có |
Chưa có(40km thử nghiệm) |
600 km(TGV) |
400 km |
Việt Nam là một quốc gia 85 triệu dân, thu nhập GDP
chỉ mới đạt 40 tỷ USD/năm dự kiến 1630km ĐSCT là
thiếu thực tế.
Sự thật, phương án này xa với thực tế vì: Dự án ĐS cao tốc Bắc-Nam là một trong những dự án
hợp tác Việt-Nhật được quan tâm nhất trong năm 2007.
Hiện tại phía Nhật Bản và Việt Nam đã thành lập một
Uỷ ban Liên Chính phủ để thảo luận về dự án “ĐS cao
tốc Bắc-Nam” này. Tổng Công ty ĐS Việt Nam đã cho
biết, ĐS cao tốc Bắc-Nam dài 1.630 km dành riêng cho
các đoàn tàu khách chạy với tốc độ từ 300-350 km/giờ
dự kiến cần nguồn vốn đầu tư khoảng 33 tỉ USD. Trong
đó, vốn đầu tư cho hạ tầng là 70% sẽ do Nhà nước đảm
nhận, vốn đầu tư mua sắm phương tiện còn lại sẽ do
Tổng công ty đảm nhận. Các tiêu chuẩn xây dựng ĐS
cao tốc sẽ dựa vào khung tiêu chuẩn của ĐS cao tốc
Shikansen của Nhật Bản. Dự kiến thời gian thực hiện
dự án trong vòng 9 năm. Sau khi hoàn thành, hành
trình tàu Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh sẽ được rút ngắn
xuống dưới 10 giờ. Tổng Công ty ĐS Việt Nam phối hợp với Hiệp hội xuất
khẩu đầu máy toa xe Nhật Bản (JORSA) và Cơ quan dịch
vụ ĐS Nhật Bản (JARTS) đã bước đầu nghiên cứu. Ngày 06/4/2007 tại Hà Nội, Ủy ban liên chính phủ
Việt Nam - Nhật Bản tổ chức hôi thảo với chuyên đề
“HƯỚNG TỚI HIỆN ĐẠI HÓA VÀ CAO TỐC HÓA ĐƯỜNG SẮT BẮC
– NAM”. Tại Hội thảo đó, ngài Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam
Norio Hattori gọi dự án xây dựng ĐS cao tốc Bắc Nam
33 tỷ USD là một “Ước mơ lãng mạn lớn”. Đại diện
Chính phủ phía Nhật Bản đã công khai trước Hội thảo
và với báo chí rằng “33 tỷ USD là một số vốn khổng
lồ mà phía Nhật Bản không thể tài trợ toàn bộ cho dự
án”. (Xem tư liệu trên báo VNnet ngày 06-4-2007) Đến nay dự án đang bế tắc do chưa giải quyết xong
bài toán về vốn, thời gian thi công phải kéo dài
trên 60 năm. Cũng chính trong Hội thảo đó các chuyên
gia Nhật đã có lời khuyên VN nên thực hiện hiện đại
ĐS trước khi làm ĐSCT và nếu có cũng chỉ nên có dưới
300 km. Như vậy dự án 1630 km ĐSCT tốc độ 350 km/h
đã không khả thi qua đánh giá của chuyên gia Nhật
Bản. Cho đến nay nhóm dự án vẫn chưa có hoạt động gì
mới để gọi là “khởi động dự án”.
1.3.3 - Phương án
làm mới hai đoạn ĐSCT 350 km/h là Sài Gòn – Nha
Trang, HN - Vinh của nhóm nghiên cứu Hàn Quốc:
(Nguồn ĐSVN và Bộ GTVT)
Cũng như phương án 1630 km ĐSCT của Nhật Bản, phương
án này khó khăn về đền bù giải tỏa và di dời dân,
khi hoàn thành cung vượt cầu, lại gây dồn cục giao
thông tại Nha Trang và Vinh, thời gian thi công phải
trên 30 năm. Nhóm dự án đã công bố nghiên cứu tiền khả thi tuyến
ĐSCT Sài Gòn – Nha Trang 500 km với vốn đầu tư 9.5
tỷ USD chưa tính đến đền bù giải tỏa. Con số này vẫn
xa vời thực tế so với 300 km ĐSCT của Đài Loan tiêu
tốn 18 tỷ USD thi công trên 15 năm. Cho đến nay nhóm nghiên cứu dự án của Hàn Quốc đang
nghiên cứu thêm về tuyến ĐSCT Hà Nội – Vinh.
1.3.4 - Phương án làm mới ĐSCT tốc độ 500 km/h của
nhóm tư vấn theo mô hình Pháp:
Pháp là nước Phát triển công nghiệp sớm và có ĐS
phát triển, họ có 600 km ĐS cao tốc công nghệ TGV
tốc độ 350 km/h từ Paris đi Lion. Ngày 18/5/1990
Pháp đã thử nghiệm thành công tàu TGV đạt tốc độ
515.3 km/h vượt kỷ lục công nghệ Shikansen của Nhật
Bản. Song đây vẫn chỉ là tốc độ thử nghiệm vì tốc độ
500 km/h là tốc độ “tử thần”. Pháp là một nước ôn đới có khí hậu ôn hòa, địa hình
bằng phẳng nên chúng ta không thể áp dụng công nghệ
500 km/h vào một địa hình quanh co hiểm trở, chịu
khí hậu khắc nghiệt của vùng bão tố - gió mùa và mưa
lớn ở Việt Nam. Rõ ràng rằng phương án này hoàn toàn không khả thi
và chính nước Pháp cũng chưa áp dụng loại tốc độ 500
km/h. Qua 4 phương án trên đều có vấn đề, không mang tính
khả thi cao, vì vậy cần nghiên cứu một giải pháp để
khắc phục các nhược điểm về kỹ thuật, vốn, hiệu quả
kinh tế, thời gian thi công và đáp ứng nhu cầu vận
tải hiện nay. Trong hơn 20 năm qua ngành ĐS không ngừng đầu tư đổi
mới và lập được thành tích. Song do khổ đường hẹp 1
mét nên khi tăng tốc đã gây ra một số tai nạn thảm
khốc như vụ tàu S1, E1 và liên tiếp gần đây xảy ra
là nhiều vụ trật bánh. Sự bất cập giữa hạ tầng ĐS bề rộng khổ 1 mét và các
loại phương tiện đầu máy có công suất lớn trên 2000
mã lực chưa phát huy hết công suất. Sự đe dọa mất an toàn đang tác động lên lái tàu và
nhân viên hoạt động trên tàu cùng hành khách. Việc
đưa tà vẹt BTCT dự ứng lực 1 mét vào kiên cố hóa ĐS
chỉ là kéo dài sự lạc hậu của ĐS. Vì vậy nghiên cứu khả thi về mở rộng kỹ thuật và
điện khí hóa ĐS Việt Nam là điều cần thiết và cấp
bách nhất hiện nay để thực hiện hiện đại ĐS!
II - Chương Hai
|