Những bài cùng tác giả
Mấy hôm nay mưa đã đến, những nhà
máy thuỷ điện sẽ có thể cung cấp điện làm đời sồng
kinh tế và sinh hoạt hàng ngày dễ dãi hơn. Nhưng đây
chỉ là một giai đoạn ngơi ngớt trước những vụ cắt
điện mất điện vào mùa hạn các năm tới.
Trong bài này chúng tôi xin trình
bày nguyên nhân và hậu quả của nạn cắt điện mất điện
và đề nghị một vài giải pháp.
Điện là một sản phẩm tiêu dùng
cho tiện nghi và cũng là một nhân tố sản xuất. Chúng
tôi sẽ phân biệt rõ hai công dụng này. Chúng tôi sẽ
nhắc lại một số nhận xét và đề nghị kỹ thuật đã được
trình bày trong hai bài
(1):
1. Nguyên nhân của nạn cắt điện mất điện
Một mạng phân phối điện có thể
ngưng cung cấp điện khi cần bảo trì một hạng mục
quan trọng của mạng, vì không có nhiên liệu để sản
xuất điện hay vì không còn nước trong hồ thuỷ điện
để quay ráo. Người ta gọi tình huống này là cắt
điện. Thông thường thì công ty điện báo trước để
người tiêu dùng chuẩn bị sinh hoạt cho phù hợp.
Nhưng cũng có khi mạng phân phối ngưng cung cấp điện
một cách bất chợt vì bỗng nhiên mất cân bằng. Người
ta gọi tình huống này là mất điện. Theo những tin
nhận được từ trong nước thì nạn cắt điện mất điện
xảy ra quanh năm chứ không chỉ xảy ra vào mùa hạn.
(a) Nguyên nhân cơ cấu
Với tăng trưởng thu nhập cá nhân,
người dân thành thị có thêm nhu cầu về tiện nghi đời
sống chỉ có thể thoả mãn được bằng điện : soi sáng
nhiều hơn bằng đèn điện, dùng quạt và máy điều hoà
không khí, thổi cơm bằng nồi và lò bếp điện,...
Những nhu cầu đó chính đáng vì điều kiện sinh sống ở
thành thị bây giờ khác xưa. Chúng cũng đang được phổ
biến ở thôn quê. Nhưng nhu cầu điện gia tăng chủ yếu
do sự phát triển công nghiệp và các ngành dịch vụ.
Tính từ số liệu của Tổng cục
Thống kê thì, từ mười năm nay, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng trung bình 14,5% mỗi năm và số lượt
khách du lịch tăng trung bình 16,3% mỗi năm. Trong
khi đó, tính từ số liệu của EIA (Energy Information
Agency, Cơ quan Thông tin Năng lượng, Hoa Kỳ)
(2),
sản lượng điện được sản xuất chỉ tăng có 11,3% mỗi
năm. Sản xuất điện không tăng kèm theo tăng trưởng
kinh tế sinh ra nạn thiếu điện. Ngay vài năm sau khi
có chính sách Đổi Mới, cung đã không đủ cầu và nạn
cắt điện mất điện xảy ra mỗi năm mỗi trầm trọng hơn.
Năm 2006, công suất tất cả các
nhà máy điện ở Việt Nam là 11.400 MW, trong đó, công
suất các nhà máy thuỷ điện là 4.200 MW, nghĩa là 37%
của tổng số công suất. Khả năng sản xuất thuỷ điện
tuỳ thuộc vào thời tiết quanh năm. Tỷ số công suất
thuỷ điện lớn như vậy làm cho thời tiết chi phối
việc cung cấp điện, đặc biệt vào mùa hạn. Năm 2005,
sản lượng tất cả các nhà máy điện ở Việt Nam là
51,3 TW h, trong đó, sản lượng từ các nhà máy thuỷ
điện là 21,2 TW h, nghĩa là 41% của tổng sản lượng.
Tỷ số sản lượng thuỷ điện lớn hơn tỷ số công suất
cho thấy, khi vận hành hệ thống cung cấp điện, ngành
điện Việt Nam đã làm cho nguồn cung cấp điện tuỳ
thuộc vào thời tiết hơn nữa, đặc biệt vào những mùa
hạn
(3).
Từ vài năm nay, Bộ Công Thương đã ý thức được nguy
cơ này và đã cho phép xây nhiều nhà máy nhiệt điện
với công suất lớn. Trên nguyên tắc thì nạn cắt điện
mất điện sẽ giảm. Nhưng, những công trình đang xây
chưa có ảnh hưởng tích cực vì mới khởi công xây hay
việc hoàn tất gặp nhiều khó khăn.
(b) Nguyên nhân trạng huống
Cũng phải nói là thời tiết năm
nay ở bên nhà khô và nóng khác thường.
Nhiều người đổ nạn cắt điện mất
điện cho hai nhà máy nhiệt điện Hải Phòng và Quảng
Ninh do các hãng Trung Quốc xây đáng lẽ đã phải đi
vào hoạt động từ một năm nay. Công suất hai nhà máy
điện này tổng cộng 3.900 MW, nghĩa là hơn một phần
ba công suất đã được lắp đặt của tất cả các nhà máy
điện của cả nước. Do đó, sự chậm trễ này làm thiệt
hại lớn cho ngành điện và tất cả các ngành kinh tế.
Thái độ hung hăng của chính phủ
Trung Quốc về Biển Đông làm nhiều người Việt chúng
ta có tinh thần bài Hán và có chuyện gì không hay là
đổ lỗi cho người Trung Quốc
(4).
Việc những nhà máy nhiệt điện Hải Phòng và Quảng
Ninh bị chậm trễ không có liên hệ gì với những múa
may ngoại giao và quân sự của Trung Quốc. Thực ra
thì phía Việt Nam cũng không oan gì và chúng ta phải
tìm những giải thích khách quan hơn.
Một công trình bị chậm trễ hay
thiếu chất lượng vì bất cứ lý do gì sẽ gây thiệt hại
cho cả hai đối tác, chủ đầu tư cũng như nhà thầu.
Vậy mọi nhà thầu đều mong muốn mau chóng kết thúc
một hợp đồng đúng quy định của điều kiện sách. Ở Phi
Châu, các nhà thầu Trung Quốc thường bàn giao những
công trình hạ tầng giao thông vận tải đúng kỳ hẹn.
Tại sao ở nước ta thì lại chậm trễ đến thế ?
Chúng tôi không biết chi tiết của
sự việc nên chỉ nêu một số giả thuyết dựa trên những
khó khăn thực hiện những dự án khác trong nước.
Một công trình công nghiệp phức
tạp hơn những hạ tầng giao thông vận tải vì có thêm
những hạng mục cơ khí, điện cơ và điện tử. Chất
lượng những hạng mục này của Trung Quốc không nhất
thiết được bảo đảm vì trình độ văn hóa công nghiệp
các xí nghiệp Trung Quốc chưa đạt được đẳng cấp các
quốc gia công nghiệp khác. Sau khi lắp ráp và thử
nghiệm thì phát hiện sai sót, công trường xây dựng
phải ngưng để sửa chữa làm cho thời biểu bị trượt.
Về phía chúng ta thì thiếu người
có đủ kỹ năng để thi hành những hợp đồng thầu phụ.
Điều này dẫn tới những vấn đề chất lượng lắp ráp
thiết bị, công trình phải ngưng để hiệu chỉnh. Ngoài
ra, nhà thầu phụ thường không có đủ nhân lực để cung
cấp theo tiến độ của công trình làm cho các dự án
tiến triển chậm hơn dự định. Những nhà máy Quảng
Ninh lại xây theo dạng EPC, nghĩa là chìa khóa trao
tay. Nếu loại suy từ nhiều dự án trong nước thì chủ
đầu tư chắc đã ký hợp đồng xây dựng nhà máy trước
khi được cam đoan sẽ có đầy đủ tài trợ. Nhà thầu
Trung Quốc xây nửa chừng rồi ngưng vì phía Việt Nam
không còn tài chính để thanh toán những hóa đơn của
họ(5).
Vì những chậm trễ đó, giá vật
liệu tăng theo thời gian làm chúng ta lại càng kẹt
thêm về tài chính.
Nhưng hai nhà máy nhiệt điện Hải
Phòng và Quảng Ninh chỉ là một nửa nguyên nhân nạn
cắt điện mất điện. Ngành điện lại còn sai lầm về vận
hành những công suất sẵn có :
1. thay vì dự trữ nước để có thể
quay ráo vào mùa hạn thì các nhà máy điện đã dùng
tất cả nước chảy vào hồ chứa để sản xuất điện vào
mùa lũ(6),
2. nhà máy nhiệt điện Cà Mau, với
750 MW công suất lắp đặt, chạy cầm chừng vì thiếu
khí nhiên liệu, nhà máy điện Uông Bí mở rộng, với
300 MW công suất lắp đặt, cũng vẫn chưa chạy ổn
định,,
3. không có chương trình bảo trì
phòng ngừa cục bộ làm cho nhiều cơ sở sản xuất điện
và mạng phân phối điện phải ngưng hoạt động vì hỏng
hóc đúng vào mùa hạn,
4. khi bảo trì phòng ngừa, thay
vì làm việc này vào mùa lũ, thì chọn ngưng sản xuất
để bảo trì vào mùa hạn lúc cần đến tất cả công suất
có thể vận động được.
(c) Trách nhiệm của Bộ Công Thương
Chúng tôi không khơi lại những
quyết định quá xưa dẫn tới nạn cắt điện mất điện.
Ở nước ta có rất nhiều đối tác
can thiệp vào việc cung cấp điện. Hậu quả là khi có
vấn đề như là cắt điện mất điện thì không biết khiếu
nại với ai. Do đó, có nhiều đối tác lộng hành vô
trách nhiệm.
Vì sốt sắng thiết lập kinh tế thị
trường nhưng không nắm rõ những định luật của kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Bộ
Công Thương đã :
1. xã hội hóa nghĩa vụ cung cấp
điện, nghĩa là để mạnh ai nấy làm kể cả những đối
tác không có đủ vốn hay/và không có kỹ năng nghiệp
vụ,
2. tách Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) thành nhiều công ty con có chức năng địa
phương hy vọng những công ty này sẽ cạnh tranh lẫn
nhau để làm giảm giá bán điện,
3. gán cho những tập đoàn ngoài
ngành điện chức năng sản xuất điện,
4. không ban hành một biểu giá
mua điện dài hạn làm cho EVN phải liên miên thương
lượng và tranh cãi với những xí nghiệp khác dẫn tới
tình trạng EVN không có điện để bán trong khi những
xí nghiệp khác có thừa công suất,
5. và không kiểm
soát hoạt động của ban giám đốc những tập đoàn và
công ty tuỳ thuộc Bộ để họ đầu tư ngoài ngành chức
năng và cấu xé nhau trên những thị trường không nhất
thiết là thị trường năng lượng(7)
2. Hậu quả của nạn cắt điện mất điệnện
Những vụ cắt điện mất điện chỉ
làm phiền phức người dân thường. Ở nước ta, mùa hạn
cũng là mùa học thi. Có người nói thời chiến tranh
không có điện để bật đèn bật quạt mà cũng vẫn phải
học thi. Nhưng, bây giờ đâu còn chiến tranh nữa mà
sự thi đua bằng cấp trở nên khắc nghiệt hơn xưa. Hồi
chiến-tranh, chúng ta đâu có nhiều du-khách và nhà
máy như bây giờ. Ngoài ra, ít ai nói tới những ca
giải phẫu ở bệnh viện bị gián đoạn vì mất điện làm
bệnh nhân tử vong.
Vì không tín nhiệm EVN, các cơ sở
sản xuất và dịch vụ thường được trang bị bởi những ổ
phát điện phụ trợ. Những tổ máy này ô nhiễm nhiều
hơn và có hiệu suất thấp hơn và, suy ra, không khí
đô thị đã ô nhiễm lại càng ô nhiễm thêm và giá thành
của điện cao hơn giá thành những tổ máy công suất cả
trăm mega watt của EVN. Sai biệt giữa giá thành của
những ổ phát điện phụ trợ và giá bán thấp hơn của
EVN (nhờ có hiệu suất cao hơn) làm cho giá thành sản
phẩm và dịch vụ các xí nghiệp cao hơn cần thiết. Đó
là chưa kể đến những cơ sở kinh doanh quá nhỏ, không
có ổ phát điện phụ trợ, phải ngưng sản xuất và cho
nhân viên tạm nghỉ việc. Tình trạng này làm cho
những xí nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và, suy ra,
kinh tế nói chung tăng trưởng ít hơn khả năng tiềm
tàng.
Báo chí trong nước đã phản ảnh
những phiền phức của người dân và những thiệt hại
cho kinh tế quốc dân rồi. Chúng tôi xin nêu thêm một
số ác tính âm ỉ của nạn cắt điện mất điện.
Một hợp đồng cung cấp điện phải
bảo đảm ba chỉ số : công suất tối đa, điện áp, và
chu kỳ. Khi cung cấp điện cho tư nhân thì công suất
có thể từ 500 W đến 50 kW, điện áp là 220 V và chu
kỳ là 50 Hz. Khi cung cấp cho cơ sở sản xuất hay
dịch vụ thì công suất và điện áp tuỳ hợp đồng với
công ty điện còn chu kỳ thì vẫn là 50 Hz. Khi mạng
phân phối thiếu điện thì chu kỳ sẽ giảm. Nếu chu kỳ
ở một địa phương dưới 49 Hz thì có nghĩa là mạng
phân phối thiếu điện và phải cắt điện ở địa phương
đó để bảo vệ cân bằng mạng phân phối điện quốc gia.
Nếu tình trạng thiếu điện không được dự báo trước
thì hệ thống điều hành mạng phân phối địa phương sẽ
tự động cắt điện.
Những thiết bị gia
dụng cũng như thiết bị sản xuất đều được thiết kế để
chạy với một công suất, một điện áp, và một chu kỳ
cố định. Nếu được cung cấp điện với những thông số
khác thì hiệu suất sẽ không tối ưu và có khi thiết
bị có thể bị hỏng. Dù sao một thiết bị chạy lâu ở
ngoài những thông số thiết kế cũng sẽ chóng hỏng.
Tình trạng tệ nhất là mất điện : một thiết bị chạy
bằng điện bỗng nhiên bị mất điện có thể hỏng ngay
hay ít ra sau này sẽ chạy ở trạng thái huỷ hại và
mau hỏng. Đây cũng là một nguồn lãng phí tiềm lực
quốc gia làm cho kinh tế vĩ mô tăng trưởng ít hơn
tiềm năng
Nạn cắt điện mất điện cũng còn
tai hại về đầu tư nước ngoài. Những siêu dự án công
nghiệp với vốn đầu tư nước ngoài thì không bị ảnh
hưởng vì những cơ sở của họ đều có ít nhất một tổ
máy phát điện đáp ứng tất cả những nhu cầu thông
thường của họ. Nhưng những chủ đầu tư những dự án cỡ
trung bình thì, sau khi nghiên cứu hiện địa, hoặc họ
chấp nhận những trở ngại của nạn cắt điện mất điện
hoặc họ rút sang nước khác. Chúng tôi không biết hậu
quả tai hại đến bực nào. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ
cần tính số những đơn xin đầu tư và lượng vốn đăng
ký mới trong những mùa hạn và so với trung bình cả
năm.m.
3. Một số giải pháp
(a) Biểu giá điện
Điện là một sản
phẩm thiết yếu nên đòi hỏi về điện co giãn rất ít
theo giá bán và không có giá thị trường mà chỉ có
giá thành ở đầu kẹp dây nơi tiêu dùng. Ở phần này
chúng tôi chỉ xin trình bày cơ cấu biểu giá điện
theo những định luật kinh tế cơ bản về sản phẩm hay
dịch vụ phúc lợi công cộng(9)
Biểu giá điện phải được thiết lập
như thế nào để cho xí nghiệp cung cấp điện có thu
nhập ít nhất bằng tổng số giá thành ở tất cả các đầu
kẹp dây. Nếu thu nhập khác với tổng số giá thành thì
hiệu suất kinh tế toàn quốc sẽ giảm. Thực ra thì thu
nhập có thể cao hơn tổng số giá thành một chút. Sai
biệt với giá thành sẽ giúp xí nghiệp cung cấp điện
đầu tư thêm vào những cơ sở và công trình mới để đáp
ứng những nhu cầu tương lai.i.
Ngành điện có hai thị trường
điện : thị trường tư nhân và thị trường các cơ sở
sản xuất hay dịch vụ.
Đối với các cơ sở sản xuất hay
dịch vụ, điện là một nhân tố sản xuất. Giá bán ở mỗi
đầu kẹp dây phải bằng giá thành của xí nghiệp cung
cấp điện hay cao hơn một chút. Nguyên tắc này phải
được áp dụng đồng đều cho mỗi khách hàng.
Phân biệt các
ngành sản xuất, bơm nước tưới tiêu, các đối tượng
hành chính, sự nghiệp (mà chúng tôi coi là các cơ sở
sản xuất hay dịch vụ) và điện cho kinh doanh như
trong biểu giá của EVN
(10)
thì sẽ gây ra tham nhũng (một đối tượng có thể tìm
cách chuyển sang ngành khác để được hưởng biểu giá
rẻ hơn) và làm giảm hiệu suất kinh tế toàn quốc.
Đối với tư nhân, điện là một sản
phẩm tiêu dùng cho tiện nghi. Chúng ta có thể áp
dụng nguyên tắc “giá bán ở đầu kẹp dây phải bằng giá
thành của xí nghiệp cung cấp điện hay cao hơn một
chút” một cách đồng đều cho mọi khách hàng. Nhưng
biểu giá điện có thể dùng để cân bằng đôi chút sức
mua của các thành phần xã hội bằng cách phân phát
lại thu nhập cá nhân. Giá điện cho những hộ nghèo
thấp hơn giá thành của xí nghiệp cung cấp điện và
giá bán cho những hộ giầu cao hơn giá thành miễn là
tổng số giá bán ở tất cả các đầu kẹp dây phải bằng
tổng số giá thành của xí nghiệp cung cấp điện hay
cao hơn một chút. Nguyên tắc này có thể được áp dụng
một cách nghiêm minh khi tính biểu giá theo một
thang tiêu thụ điện : những hộ nghèo có ít tiền hơn
là những hộ giầu để mua và dùng những thiết bị tiêu
thụ điện. Nhiều nước tư bản chủ nghĩa áp dụng nguyên
tắc này và b biểu
giá của EVN cũng vậy. Vấn đề là khoảng cách giá điện
giữa hai bậc thang tiêu thụ điện có đủ cao để phân
phát lại thu nhập một cách tương xứng với xã hội chủ
nghĩa hay không.
(b) Kết cấu thị trường cung cấp điện
Điện là một một sản phẩm phúc lợi
công cộng như là công lý, an ninh, quốc phòng, y tế
hay giáo dục. Điều này đã được Lê Nin xác định ngay
từ những ngày đầu của cách mạng Nga. Vì lý do đó mà
việc phân phối điện thuộc uy quyền của Nhà Nước và
xí nghiệp cung cấp điện phải là một xí nghiệp quốc
doanh. Ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa, phân phối điện
được Nhà Nước uỷ thác cho những xí nghiệp liên doanh
hay hoàn toàn ngoài quốc doanh. Những nước chậm
tiến, thiếu vốn và thiếu nhân lực chuyên môn, có thể
kêu gọi những xí nghiệp chuyên về dịch vụ phúc lợi
công cộng đầu tư theo dạng BO hay BOT. Nhưng dù là
xí nghiệp tư, xí nghiệp bán công hay xí nghiệp công,
thì những xí nghiệp đó đều phải tuân theo chỉ thị
của chính phủ đặt lợi ích công cộng trên lợi ích xí
nghiệp. Để đạt được mục đích này, các xí nghiệp cung
cấp điện ký với chính phủ một hợp đồng dài hạn về
biến đổi giá điện. Lẽ cốt nhiên,
hợp
đồng này phải có lợi cho cả hai bên.
Tối ưu kinh tế của các cá nhân
và các xí nghiệp đổ đồng không phải là tối ưu kinh tế của toàn quốc. Tải
điện cần đến đường dây và những trạm biến áp từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
thụ. Khấu hao và chi phí vận hành những hạng mục này cộng với thất thoát
điện do hiệu ứng Ohm chiếm một tỷ lệ lớn của giá thành điện tải đến đầu kẹp
ở nơi tiêu thụ. Tổng chi phí tải điện từ đập Hòa Bình đến Phú Mỹ gần TP Hồ
Chí Minh có thể bằng 25 đến 40 phần trăm giá thành. Vì lý do đó người ta coi
điện là một sản phẩm không thể tải đi xa được. Đặc tính này tạo ra những vị
thế độc quyền địa phương (local monopoly). Xã hội hóa ngành điện là một sai
lầm trong bối cảnh thiếu tiềm năng về vốn và nhân lực như hiện nay. Phân
chia thị trường cung cấp điện cho nhiều đối tác cạnh tranh nhau là không tận
dụng hiệu ứng tay nghề và hiệu ứng tiết kiệm quy mô(11)
Mọi cơ sở công nghiệp đều cần đến
điện. Nếu nhu cầu điện đủ lớn để giá thành điện tự
chế thấp hơn giá bán của xí nghiệp cung cấp điện thì
cơ sở đó có thể được trang bị bởi một tổ phát điện
riêng. Có khi cơ sở sinh ra phụ phẩm dưới dạng chất
đốt. Chất đốt đó có thể dùng để sản xuất điện. Khi
công suất tổ phát điện cao hơn nhu cầu của cơ sở thì
xí nghiệp có thể bán điện có thừa cho một xí nghiệp
cung cấp điện hay một xí nghiệp khác đang thiếu điện(12).
Nhưng sản xuất điện không phải là nghề chính của các
xí nghiệp đó.
EVN mua lại điện của
Petrovietnam, Vinacomin hay một xí nghiệp nào khác
là tận dụng tiềm lực của toàn quốc. Gán cho những xí
nghiệp đó chức năng sản xuất điện phụ với EVN là một
sai lầm có thể dẫn tới phá sản như Vinashin(13).
Petrovietnam, Vinacomin và EVN là những công ty vốn
Nhà Nước. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà
Nước (SCIC) có chức năng quản lý vốn Nhà Nước và đại
diện chính phủ ở những hội đồng quản trị các công ty
có vốn Nhà Nước. Nếu quả thực Petrovietnam hay
Vinacomin thừa vốn và EVN thiếu vốn thì chỉ cần một
lệnh của chính phủ chuyển đến SCIC là vốn có thừa
của hai tập đoàn này sẽ trở thành vốn của EVN dùng
để EVN đầu tư vào những cơ sở cung cấp điện.
Petrovietnam, Vinacomin và những xí nghiệp quốc
doanh khác đã có nhiều lý do tranh chấp vô lý với
EVN về giá dầu, giá khí đốt và giá than... cần gì
mà phải có những PV Power hay Vinacomin Power để cho
phức tạp thêm.
Về kết cấu thị trường cung cấp
điện, chúng tôi xin đề nghị
1. EVN có nhiệm vụ thoả mãn tất
cả những đòi hỏi về điện của tư nhân cũng như của
tất cả các xí nghiệp phát biểu nhu cầu và thoả mãn
tất cả những đòi hỏi chuyền tải điện của mình cũng
như của những xí nghiệp khác.
2. EVN có độc quyền toàn quốc
chuyền tải điện và cung cấp điện trên thị trường tư
nhân. Độc quyền này không vi phạm guyên tắc tự do
kinh doanh của WTO và không ngăn cản việc Việt Nam
được tuyên bố là có kinh tế thị trường.
3. EVN cung cấp điện cạnh tranh
với những xí nghiệp khác có chức năng sản xuất điện,
chính hay phụ, trên những thị trường khác.
4. SCIC cung cấp vốn hay bảo đảm
vay nợ của EVN để đầu tư vào những cơ sở công trình
cung cấp điện. Giá thành điện
của EVN là tổng số giá điện EVN mua của các đối tác
khác, khấu hao của các cơ sở công trình thuộc sở hữu
EVN và chi phí vận hành những hạng mục đó chia cho
tổng sản lượng điện của EVN(14).
Giá thành đó, phóng chiếu đến một thời gian dài, tỷ
dụ năm năm, dùng làm cơ sở để lập biểu giá bán điện
cho tư nhân và cơ sở để thương lượng giao dịch với
các đối tác khác.
(c) Hệ thống cung cấp điện
Hệ thống cung cấp điện gồm những
cơ sở sản xuất điện, mạng đường dây chuyền tải cao
áp và những đường dây mạng điện từ trạm biến áp đến
đầu kẹp dây nơi tiêu dùng.
Ba đặc điểm của ngành điện kiềm
chế chiến lược xây dựng hệ thống cung cấp điện.
1. Những nhà máy điện càng lớn
bao nhiêu thì, quy ra sản lượng, ô nhiễm và giá
thành càng ít bấy nhiêu. Chúng ta sẽ xây những cơ sở
sản xuất lớn nhất mà công nghệ và địa thế cho phép.
3. Điện là một sản phẩm không thể
tích trữ được. Trừ những biển đảo xa xăm ít dân cư,
khi sản xuất điện chúng ta sẽ tránh không dùng những
nguồn năng lượng tái tạo như là nhật năng và phong
năng. Trên đất liền, nếu dùng thử những nguồn năng
lượng này để nghiên cứu khoa học kỹ thuật thì những
cơ sở sản xuất sẽ được tách ly khỏi mạng phân phối
quốc gia và điện sinh ra sẽ dùng để bơm nước vào
những hồ tích năng(15)
Thuỷ điện chỉ có thể đóng góp tối
đa 80 TW h mỗi năm. Chúng tôi ước tính năm 2015,
nghĩa là năm năm nữa, nhu cầu điện đã là khoảng
110 TW h và năm 2020 sẽ cần đến khoảng 160 TW h(16).
Dù muốn dù không phần lớn điện chúng ta tiêu thụ sẽ
là nhiệt điện cổ điển và nhiệt điện hạt nhân. Thuỷ
năng dần dần sẽ là phụ phẩm của nông lâm nghiệp và
một nguồn điện thứ yếu dùng để điều chỉnh cân bằng
mạng phân phối điện quốc gia.
Với triển vọng nhiên liệu hóa
thạch sẽ khan hiếm và áp lực của biến đổi khí hậu,
điện hạt nhân sẽ là nguồn điện chính. Nhưng chúng
tôi rất bi quan về an toàn hạt nhân ở nước ta. Cho
tới giờ này chính phủ mới chỉ có một văn bản về tổ
chức an toàn hạt nhân
(17) mà vẫn đặt mục tiêu sản xuất điện hạt nhân vào năm
2020. Ngoài ra chúng tôi không hiểu tại sao chính
phủ lại giao trách nhiệm triển khai năng lượng hạt
nhân cho một nhân vật đã thất bại ở tất cả những
nhiệm vụ trước : nạo vét kênh Nhiêu Lộc, 300 tiến sĩ
ở TP Hồ Chí Minh, 20.000 tiến sĩ ở Bộ Giáo dục Đào
tạo, cải cách giáo dục,... Vậy, trước mắt chỉ có
những nhà máy nhiệt điện cổ điển chạy bằng nhiên
liệu hóa thạch. Để giảm thiểu ô nhiễm, ưu tiên là
những nhà máy điện khí chu kỳ hỗn hợp, sau đó là
điện than lưu thể hóa và sau cùng là những tổ phát
điện diêzen. Phối hợp những nguồn nhiên liệu đó tuỳ
ở giá nhiên liệu trên thị trường thế giới và tiềm
lực các mỏ và nhà máy lọc dầu ở Việt Nam.
Kết luận
Nguyên nhân chính của tình trạng
cắt điện mất điện là Bộ Công Thương thiếu người có
tầm nhìn xa hơn là đối phó những khó khăn trước mắt
và EVN thiếu cán bộ có tinh thần đồng đội muốn hợp
tác sản xuất điện với những ngành khác như là ngành
hoá, ngành than và ngành dầu khí.
Nếu chúng ta tiếp tục ì ạch xây
và vận hành những nhà máy điện như hiện nay thì sẽ
vĩnh viễn thiếu điện. Với một chính sách cung cấp
điện thích nghi thì nạn thiếu điện sẽ tuần tự giảm
cường độ để chấm dứt trong một chục năm nữa. Những
giải pháp như là tái kết cấu ngành điện, lập một sàn
giao dịch điện hay tăng giá điện nhiều người đã đưa
ra đều vô hiệu vì chúng không làm tăng tiềm năng
cung cấp điện.
Trước mắt chúng ta phải làm một
số việc có hiệu ứng nhanh không thể chờ tháng tư năm
tới mới làm :
1. thực hiện và hoàn tất tất cả
những chương trình bảo trì phòng ngừa định kỳ trước
mùa hạn tới, tốt nhất là trước tháng ba,
2. tháo gỡ những khó khăn gây ra
chậm trễ xây dựng hai nhà máy điện Hải Phòng và
Quảng Ninh và, nếu có, những nhà máy khác đang xây
dựng.
Về dài hạn chúng ta phải :
1. lập và thực hiện một chương
trình đào tạo nhân lực có khả năng chỉ huy việc xây
dựng nhà máy và nhân lực có khả năng vận hành một
nhà máy,
2. tận dụng những tiềm năng điện
phụ phẩm của các ngành công nghiệp khác như là các
ngành than, dầu khí và hóa chất,
3. và thiết kế một kế hoạch sản
xuất điện đa nguồn với tầm nhìn nửa thế kỷ hay hơn
nữa.
Đặng Đình Cung
Chú thích :
(1)
Năng lượng và phát triển bền vững và Việt Nam-
Phân tích chiến lược
và
Năng lượng và phát triển bền vững và Việt Nam
- Đề nghị mô hình chiến lược năng
lượng và phát triển bền vững
(2)Trạm Internet của
Tổng cục Thống kê là
www.gso.gov.vn và trạm
của EIA là
www.eia.doe.gov.
(3)
húng tôi không tìm
thấy số liệu về công suất và
sản lượng điện trên các trạm
Internet của Tổng cục Thống
kê và của Tập đoàn Điện lực
Việt Nam nên phải dùng số
liệu của EIA. Nhưng cơ quan
Nhà Nước này không công bố
số liệu mới hơn về ngành
điện là những năm 2005 và
2006.
(4)
Chúng tôi phân biệt
rõ người Trung Quốc, người
thuộc quốc tịch Trung Quốc,
và người Hoa, một dân tộc
của quốc gia Việt Nam.
(5)
Để bảo vệ giả thuyết
này, chúng tôi xin lấy thí
dụ nhà máy Nhơn Trạch 2.
Sáng 28.11.2010, Tập đoàn
Dầu Khí Quốc gia Việt Nam
(PVN) và công ty Siemens của
Đức ký kết hợp đồng bảo trì
sửa chữa dài hạn thiết bị
chính cho Nhà máy điện chu
trình hỗn hợp Nhơn Trạch 2
(xã Phước Khánh, huyện Nhơn
Trạch). Sáng ngày 27.6.2010,
Chủ tịch nước Nguyễn Minh
Triết phát lệnh khởi công
xây dựng công trình. Nhưng
phải chờ đến ngày 10 .8.2010
mới ký hợp đồng tài trợ tín
dụng cho dự án. Bạn đọc có
thể tham khảo những bài sau
đây :
“Nhà
máy điện Nhơn Trạch 2 sử
dụng công nghệ tiên tiến thế
giới”
"Khởi
công xây dựng Nhà máy điện
Nhơn Trạch 2"
“Tài
trợ 470 triệu USD cho dự án
nhiệt điện Nhơn Trạch II”
(6)
Xin đề nghị bạn đọc
tham khảo bài “Thuỷ
điện và Việt Nam”
(7)
Chuyện hy hữu nhất
có lẽ là tranh chấp giữa EVN
và Tập đoàn Bưu chính viễn
thông (VNPT) về giá thuê cột
điện. Bạn đọc có thể tham
khảo “EVN
vẫn 'quyết chiến' với VNPT
về giá thuê cột điện”.
(8)
Xin đề nghị bạn đọc
tham khảo những bài báo đăng
trong nước từ đầu tháng năm
đến cuối tháng bảy năm nay.
(9)Khi đang kháng chiến
chống phát xít Đức hay bị
giam ở các trại tù binh Đức
một số kỹ sư và nghiên cứu
sư Pháp đã phác hoạ một mô
hình kinh tế mà chúng ta có
thể coi là “kinh tế thị
trường với định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Sau Đệ nhị
Thế chiến, các vị đã khai
triển những định luật để có
cơ sở khoa học tái thiết
nước Pháp theo mô hình này.
Chúng tôi xin giới thiệu
những sách vỡ lòng của chúng
tôi :
Claude ABRAHAM và Andre
THOMAS : “Microeconomie –
Decisions optimales dans
l'entreprise et dans la
nation”, Dunod, 1970
Pierre MASSE và Pierre
BERNARD : “Les dividendes
du progres”, Seuil, 1969
Pierre MASSE : “Le Plan
ou l'anti hasard”,
Hermann, 1991
(10) “Biểu
giá điện năm 2010”.
(11)
“Hiệu
ứng tay nghề”.
(12) Tỷ dụ một nhà máy
đường sinh ra bã mía dùng để
sản xuất hơi trong quy trình
sản xuất đường. Hơi còn thừa
có thể dùng trong một
tua–bin hơi để sinh ra điện.
Nhà máy dùng một phần điện
đó. Phần còn lại có thể bán
cho các nhà máy láng giềng
có nhu cầu.
(13) “Xin
dung tha cho ngành đóng tàu”.
(14) Chúng tôi xin không
vào chi tiết phương pháp
tình giá thành. Bạn đọc có
nhu cầu có thể tham khảo
những sách giáo khoa về kế
toán chi phí (cost
accounting).
(15) Bạn đọc có thể tham
khảo điều kiện khai thác
phong năng ở nước ta trong
bài “Năng
lượng gió và Việt Nam”
(16) “Năm
2035 sẽ có 37 lò phản ứng
hạt nhân ?”.
(17) Quyết định 446/QĐ
TTg ngày 07 IV 2010 : “Về
việc thành lập, tổ chức và
hoạt động của Hội đồng An
toàn hạt nhân quốc gia”.
|
|