KINH DỊCH, SẢN PHẨM SÁNG TẠO CỦA NỀN VĂN HIẾN ÂU LẠC
Trần Quang Bình
Chương 5. Các nghi án Kinh Dịch. 3. Hà Đồ và Tiên Thiên.
_________________________________________________________________________________
3. Nghi án Hà Đồ và Tiên Thiên:
Hà Đồ nếu có thật có lẽ có dạng sau:
Khi đưa ra thay đổi cụm (8-3) cho cụm (9-4) chúng tôi dựa trên những lý sau:
1. Lý Tượng số:
Chữ Hán là chữ tượng hình. Tức là thấy hình thì hiểu tượng.
Rút ra hiểu cái nghĩa của hình đó. Và cũng như thế, cái quan hệ Tượng Số cũng
khắng khít không kém. Thấy số là hiểu Tượng. Nếu nói Đông hợp ứng với Thiếu
Dương của Tứ Tượng và Mộc là hành đặc trưng cho Đông (phía đông cây cối mọc tốt
tươi, đồng thời cây cối tuy có gốc rễ dưới đất nhưng ngọn của chúng vươn lên
trời nên Mộc đặc trưng cho bên Dương Nghi là hợp lẽ). Như vậy, nhìn cụm 8 khoen
đen và 3 khoen trắng khó có thể hình dung ra tính Dương của Mộc. Vì thế, đổi Mộc
có 9 khoen trắng, 4 khoen đen là hợp lý, là nhìn số mà thấy Tượng vậy.
2. Lý của Số:
Rõ ràng lẻ thuộc dương, chẵn thuộc Âm. Vậy vì lẽ gì cụm (7-2) vòng ngoài là 7 thuộc Dương mà khi qua cung Đông, Mộc thuộc Dương vòng ngoài lại là 8. Vậy cụm (9-4) biểu thị cho Dương là hợp lý hơn (8-3).
3. Lý của Thái cực đồ và Tiên Thiên:
Theo Thái cực đồ và Tiên Thiên thì phần Dương Nghi thuộc tính
Dương tăng từ Đông Bắc đến Nam và phần Âm nghi thuộc tính Âm tăng từ Tây Nam đến
Bắc. Cần lưu ý, người Trung Quốc cổ đại đã phát minh ra số hữu tỷ từ lâu vậy
những số hữu tỷ 7/9, 8/11, 9/13 không lạ với họ. Và cũng dễ hiểu về mặt toán học,
người xưa có thể dùng một hình chữ nhật cố định và cho vào đó những phần đỏ
(7,8,9) và những phần đen (2, 3, 4) tương ứng. Và họ suy ra: tính Dương tương
đối của 7/9>8/11>9/13. Ở đây lưu ý, các hướng kết hợp như Đông Bắc, Tây Bắc,
Đông Nam, Tây Nam là kết quả của hai thành phần của nó hợp thành. Vậy từ đó nếu
dùng (9-4) thuộc Mộc sẽ hợp với chiều tăng (mũi tên màu đỏ ngoài) từ Đông Bắc
sang Nam cho Dương và chiều tăng (mũi tên màu xanh ngoài) từ Tây Nam sang Bắc
cho Âm hơn khi dùng (8-3). Và vòng tăng của Âm (mũi tên màu xanh trong) trong
Dương nghi, của Dương (mũi tên màu đỏ trong) trong Âm Nghi cũng thay đổi hài hoà
hơn. Cho Dương Nghi là (2,3,4,5) còn cho Âm nghi là (1,2,3,5). Thực ra số 5 của
Âm phần Dương Nghi tôi cho là ngẫu nhiên. Nhưng có một cách giải thích Vì Tây
Nam và Đông Bắc là giai đoạn chuyển hoá từ Âm sang Dương từ Dương sang Âm nên sự
lệch biến hoàn toàn có thể.
4. Lý của cân bằng Âm Dương:
Ta không thể phủ nhận số khoen Âm lớn hơn số khoen Dương. Một phần vì khi vũ trụ hình thành thì nó đã có Hình thuộc Âm nên chuyện Âm lớn hơn là hợp lẽ. Nhưng cơ chế nào bù đắp cho cái dôi ra của Âm này. Các bác hãy chú ý, không phải vô tình mà người ta dùng 7,9 là số lẽ tượng trưng cho Dương. Chung quy sự vật tồn tại khi nó thành, nên vòng tròn Thành(phía ngoài) của Hà Đồ đóng vai trò chủ đạo. Nó chủ đạo còn vì lẽ nó mang trong mình cái khí Âm hay khí Dương của nó. Nếu vòng ngoài màu đen thì Tượng ở đó mang tính Âm, nếu màu Trắng thì Tượng mang tính Dương. Như vậy cho vòng ngoài là vòng chủ đạo là hợp lý. Các phần ở giữa các cực ta tính là trung bình của hai cực bên nó (Rõ ràng trong các sách về Kinh Dịch cũng nói mối quan hệ giữa các quái nằm giữa với hai quái nằm hai bên nó). Ví dụ hướng Đông nam bên trái là Đông (9-4) bên phải Nam (7-2) lấy trung bình ta được (8-3). Tuy nhiên, hướng Đông Bắc và Tây Nam cùng có dạng (5-5). Nhưng như tôi đã nói, vòng chủ đạo là vòng ngoài nên ta so sánh hai số vòng ngoài. Ví dụ, Đông Bắc có vòng ngoài phía Đông là 9 và vòng ngoài phía Bắc là 6. Vậy với vai trò chủ đạo vòng ngoài thì Đông Bắc thêm một chênh lệch tương trưng nữa là 3. Phân tích như thế chúng ta có vòng ngoài của Đông Bắc là 8, còn Tây Nam là 6. Chúng ta cộng lại các giá trị thành của các quái trong Tiên Thiên: phần Dương Nghi ta có 7+8+9+8=32, phần Âm Nghi ta có 6+7+8+6=27. Như vậy, ngay trong vòng chủ đạo Dương Nghi lại thắng Âm Nghi là 5. Chính số 5 Dương này khắc chế số 5 Âm dôi thừa ra. Nếu các cụm khoen không thay đổi thì khó giải thích được điều này.
Vậy từ đây, ta có thể rút ra một trong hai kết luận:
Lý luận nào cũng chỉ ra Hà Đồ theo sách chữ Hán không ăn nhập gì với Tiên Thiên Bát Quái cả. Chúng tôi thiên về kết luận hai. Hà Đồ dùng để mã hoá một đồ hình khác quan trọng hơn.
e. Từ đây, lại sản sinh thêm một nghi án: Vậy đồ hình số nào để biểu thị cho Tứ Tượng, cho Tiên Thiên? Sử sách Trung Hoa không có đồ hình này. Theo lý luận logic , chúng ta cũng dễ thấy từ Thái Cực Đồ có thể vẽ ra Tiên Thiên Bát Quái. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy độ phức tạp của Thái Cực Đồ đối với Tiên Thiên: Tiên Thiên là Bát Quái được dựng từ những quái sắp xếp theo cách chồng các vạch Âm Dương lên nhau.
Tại sao lại sắp xếp như vậy? Tại sao không dùng cách đơn giản nhất là CànĐoàiLyChấnTốnKhảmCấnKhôn thứ tự ngược chiều kim đồng hồ mà phải là hình chữ S. Dĩ nhiên, chúng ta có thể giải thích thì phải theo quy luật dương nhiều đối Âm nhiều và Dương ít đối Âm ít. Hay đơn giản hơn, chúng ta lý giải cần phải đặt các quái vào vòng tròn như thế nào đó để cho tổng các lượng số của nó bằng 7. Như vậy, từ lý luận đó ta thấy Tiên Thiên Bát Quái được xây dựng khá đơn giản theo quy luật đối xứng và sau đó theo số mà người ta lập ra đường chữ S. Từ đường chữ S này ta có thể vẽ Thái Cực Đồ[15] như theo kiểu Trung Hoa:
Hay theo kiểu vẽ trong dân gian Việt:
Vậy Thái Cực có sau Tiên Thiên và chúng không dùng để ký hiệu Tiên Thiên. Chúng chỉ là một hệ quả của Tiên Thiên. Vậy đồ hình số nào dùng để biểu thị Tiên Thiên, Tứ Tượng. Sách Dịch Trung Hoa từ cổ chí kim không có đồ hình đó.