KINH DỊCH, SẢN PHẨM SÁNG TẠO CỦA NỀN VĂN HIẾN ÂU LẠC
Trần Quang Bình
Chương 7. Trống đồng-Những kinh văn Dịch trác tuyệt. Hậu Thiên. 9. Hậu Thiên Bát Quái-một sản phẩm trí tuệ của người Việt. Phương pháp số hóa vài (ít nhất là 4) quái liền nhau+dùng đối xứng tâm
Phương pháp số hóa vài (ít nhất là 4) quái liền nhau+dùng đối xứng tâm:
Phương pháp này được dùng trong hai trống Lũng Cú và Sông Đà. Có nhiều chỗ khác nhau nhưng chung quy, thông điệp truyền đạt lại được chuyển tải bằng những nhóm hoa văn giống nhau.
Trống đồng Sông Đà:
Chúng ta nhận thấy, khác với những trống đồng khác, ở trống đồngSông Đà các cấu trúc kiến trúc gồm hai nhà mái cong và hai cái đình lại nằm gần như chính giữa các hướng. Mỗi bên đường đối xứng màu xanh đều bắt đầu từ nhà (kiến trúc) đến nhóm người đến đình (kiến trúc) lại đến nhóm người khác. Vậy rất hữu lý khi nhận định 4 cấu trúc kiến trúc và 4 nhóm người hiển thị cho bát quái.
Xin quý vị chú ý, hình chứa 26 vòng tròn nếu đọc từ tâm ra (luôn luôn có nguyên tắc viết từ gần Mặt trời ra ngoài. Vậy, hình 26 vòng tròn viết qua ngôn ngữ bát quái (chỉ lấy 3 lớp gần tâm) là 6-7-6, hay là nòngnọcnòng=Khảm.
Phía bên trái có 3 người đi và 4 người đánh trống=7=Càn.
Hình nhà bên trái có 3 vật động là chim và hai người=Tốn.
Tiếp đến cụm 6 người. Có nhiều trống đồng khắc nhóm người giã gạo nhưng thường có hai nhóm người đối xứng nhau và mỗi nhóm 3 người như: trống đồng Ngọc Lũ:
, trống đồng Hoàng Hạ:
, Cổ Loa:
Thế nhưng ở đây lại khắc nhóm chỉ hai người giã gạo chỉ một bên. Người nghệ nhân khắc họa một cách bất đối xứng như thế chắc phải có lý do. Hiển nhiên, chúng ta cũng có thể cho đó chỉ là sai lầm của người nghệ nhân làm trống Sông Đà. Có thể như vậy chăng? Liệu có thể vậy khi hầu hết tất cả những hoa văn của trống đồng Sông Đà mang tư tưởng Dịch(Diệc thư): nhóm 18-16, nhóm 3-3---4-4, mặt trời 14 cánh, mã số học của Hà Đồ qua công thức 26+18+1…Tính bất xứng phải được lý giải bằng cách khác. Ngoài ra, tính bất xứng này có một chi tiết đáng chú ý : đó là nhóm chỉ có 2 người thay vì 3 như các trống khác. Điều này chứng tỏ cách giải thích logic nhất là nghệ nhân muốn thêm vào để tính số người. Quý vị có thể hỏi: Thế tại sao không thêm vào 2 người giống như cụm 4 người? Tại sao phải là nhóm giã gạo? Rất đơn giản, nếu như thế thì không toát lên được ý đồ Tứ Tượng và Tiên Thiên qua công thức 3-3----4-4. Người nghệ nhân muốn ghi trên trống đồng hết những tinh hoa của Kinh Dịch (Diệc). Thứ hai, chúng ta thường thấy có những nhóm hay được vẽ như sau: nhóm trang phục lông chim (có lúc 2, có lúc 4 nhóm), nhóm đánh trống (2 nhóm đối xứng nhau), nhóm nhà (2 nhà đối xứng nhau có vật trong đó), nhóm đình loại 1(có người ở trong), nhóm đình loại 2 (không có người chỉ có hoa văn) và cuối cùng là nhóm giã gạo. Vậy muốn thêm hai người nào nữa vào nghệ nhân phải thêm hai người nào. Chỉ có thêm hai người giã gạo vào mới đẹp đồng thời không phá vỡ sự bức tranh cân đối hài hòa vừa diễn tả sinh hoạt người Việt cổ vừa diễn tả tư tưởng dịch. Vậy, cụm tiếp theo cần tính là 6=Đoài.
Vẫn còn vài khúc mắc cần giải quyết. Tại sao lại tính từ cái đình có hoa văn như hình bên trái mà không tính từ bên phải? Mà tại sao cứ phải lấy cái đình để tính trước? ? Tại vì người nghệ nhân cho rằng đình là nơi thiêng liêng nhất nên nó dễ làm cho người xem nhận ra ngay mật mã nào chứa đựng trong chúng và vì thế thứ tự khắc chạm để hiển thị Dịch ông phải lấy mốc ngay từ hai cái đình. Vì thế, ngược lại, rất hợp lý là trước hết chúng ta phải lấy đình để suy luận ra những điều gì người nghệ nhân nhắn nhủ vào đó. Nếu lấy cái đình bên phải thì ta được quái Khôn. Điều này không hợp với tư tưởng Hà Đồ hay tư tưởng vòng uyên nguyên Đất Nước với Nước số 1 Hà Đồ quan trọng nhất. Vả lại, nếu tính từ cái đình đó thì chúng ta nhận được nhóm bên phải ngay sau nó cũng Khôn, tức đập vào mắt ngay lập tức chỗ bất đồng. Hơn nữa, chúng tôi cho rằng với điều kiện tư tưởng triết học lúc bấy giờ thì việc trọng Nước là đương nhiên nên nghệ nhân lúc khắc chắc cũng nghĩ đến người khác nhìn trống đồng cũng tìm ngay ra hoa văn biểu diễn Khảm. Lại hỏi: Vì sao không tính từ Khảm về phía bên phải: Thứ nhất, tính về phía bên trái ta nhận được hoàn toàn 4 quái khác nhau còn về bên phải thì cụm ba người với cụm 3 sinh vật động sẽ dẫn đến hai quái giống nhau. Hay ít ra muốn tìm quái khác nhau phải giải thích rườm rà. Thứ hai, tính từ Khảm về bên trái phù hợp với chiều chim bay. Chắc đây cũng chính là ý đồ của nghệ nhân. Bởi vì thời Hậu Thiên có Khảm chủ tế, nên Khảm được vẽ lại đúng đắn chính xác theo các lớp (từ gần trời nhất ra), sau đó cứ theo chiều chim bay mà vẽ ám chỉ các quái khác (trong trường hợp này là dùng số của quái). Làm như thế người nhìn vào cũng có thể theo lý luận Khảm chủ tế, chiều bay chuẩn mà suy lại các quái dễ dàng.
Như vậy ta có bốn quái liền nhau: Khảm-Càn-Tốn-Đoài. Lấy nguyên tắc tổng bằng 7 hay nguyên tắc cặp ngược nhau phải đối xứng qua tâm ta dễ dàng xây dựng nên bát quái sau. Nguyên tắc 7 cũng đã thể hiện ngay trên chính trống đồng Sông Đà, đó là công thức 3-3---4-4. Và chính công thức này ngược lại cho người xem thấy ẩn ý mã hóa của người nghệ nhân: nhận biết ra bốn quái còn bốn quái khác được suy ra từ nguyên tắc tổng bằng 7. Quý vị cho phép tôi không viết qua ngôn ngữ nòng nọc vì như thế nhiều độc giả sẽ không quen nhìn: