Những bài cùng tác giả
Những
bài cùng đề tài

Phố phường Hà Nội chào đón ngày 2/9/2015
Hiện nay cả nước có
tới 24.300 TS, 101.000 ThS. TS Nguyễn Khắc Hùng (Học viện HCQG) cho biết ở
hàm Thứ trưởng trở lên, số quan chức có trình độ TS ở VN cao gấp 05 lần Nhật
Bản, một quốc gia phát triển thì về cơ học hẳn đất nước này sẽ phát triển
vượt bậc, đâu phải ngữa tay xin viện trợ ODA tứ phía? Nói như vậy cũng có
nghĩa rằng số lượng TS, PTS tỷ lệ không thuận với trình độ và mức độ với
tăng trưởng kinh tế, mà ngược lại, thậm chí là sức ì ngăn cản hay thụt
lùi(hay tốc độ xuống cấp) của xã hội. Một xã hội màu mè mang danh “tri thức”
đem lại gì cho đời sống của 90 triệu người dân mà cứ “nghèo vẫn hoàn nghèo”,
suốt ngày chạy theo từng bữa ăn mà vẫn không đủ no(!) . Chi phí đào tạo ra
nhiều “học giả” như vậy để làm gì, là một sự tốn kém, lãng phí ghê gớm cho
xã hội như vậy nhưng mấy ai dũng cảm thừa nhận mặc dù luôn miệng nói “em
chả, em chả” trong khi vẫn đôn đáo kiếm một suất đi nước ngoài cho con em
mình. Không biết người nào đã đẻ ra quan niệm là “muốn làm quan to thì phải
có học vị tương xứng’ mặc dù cái “học vị” đó dù là bằng cấp giả, một tờ giấy
in ấn sang trọng ở nước ngoài hay ở trong nước được các thầy “mũ cao áo
dài” xênh xang cấp phát trên sân khấu hoành tráng.
Nhà báo Kỳ Duyên phân
tích:
“Nổi bật nhất có 03 điểm bất cập:
1)- Mặc dù có tới hơn 400 trường ĐH, CĐ
cả nước, cho đến nay bằng cấp của VN vẫn chưa được các trường ĐH trên thế
giới công nhận. Nhiều sinh viên du học sang các nước phải “bị” đào tạo lại,
gây ra sự lãng phí tiền bạc không ít.
2)- Số lượng GS, TS của VN khá đông,
nhưng năng suất khoa học khá thấp. Theo số liệu của GS Nguyễn Văn Tuấn từ
năm 2014, cho thấy năm 2013 số phó GS VN cao hơn Thái Lan gấp 1.6 lần, số
GS VN cao hơn Thái Lan 2.2 lần. Nhưng từ năm 2009-2013, VN công bố được có
7.227 bài báo, còn Thái Lan công bố được 27.200 bài. Như vậy, số bài báo
khoa học của VN chỉ bằng 26% của Thái Lan! Tính trung bình, mỗi GS Thái Lan
công bố 1.68 bài báo khoa học trong 05 năm, còn VN thì 0.32 bài, một khác
biệt tới 5.2 lần.
3)- Số lượng GS, TS nhiều như thế,
nhưng hầu hết các phát minh, sáng chế lại thuộc sở hữu của các nhà “khoa học
chân đất”. Có cảm giác các GS, TS đang mũ ni che tai trước thời
cuộc? Còn các nhà khoa học chân đất lại thà đốt lên một que diêm còn hơn
ngồi nguyền rủa bóng tối. Mà cuộc gặp mặt của người đứng đầu CP mới đây
với 63 nhà “khoa học chân đất” với những chế tạo, sáng chế cho mình và cho
cộng đồng, như một minh chứng, vừa vui vừa buồn, vừa cười, vừa muốn…
mếu.”(1)

Nhiều sinh viên du học sang các nước phải “bị” đào tạo lại,
gây ra sự lãng phí tiền bạc không ít. Ảnh minh
họa: Thetreeacademy.edu.vn
Cái mà GS-TS Nguyễn Thiện Nhân trước
đây hô hào ''10 năm tới, giáo dục Việt Nam sẽ khác' (Tuyên bố của tân BT
Nguyễn Thiện Nhân trong thư gửi báo chí (2/7/2006) , kêu gào xây dựng “đẳng
cấp quốc tế” cho đại học Việt Nam từ thời ông còn làm Bộ trưởng Giáo dục và
đào tạo năm xưa bây giờ đang đi về đâu(2), số TS-PTS lúc nhúc nói trên là
thành tích nổi bật đã đạt được chăng? Thực ra nhiều TS-PTS của nước ta đâu
cần nghiên cứu mang tính công trình khoa học làm gì, chỉ sao đi chép lại một
“khái luận” sẳn có của ai đó, gia cố thêm chút muối tiêu, pha “nước màu”
nhưng không quên kèm theo vài chục, có khi hàng trăm triệu đồng “chi phí”
(cao thấp còn tùy ngành nghề, hàng ngũ thầy giáo chấm thi…) để mời vài ba GS
nối tiếng/đầu ngành đứng ra bảo vệ-phản biện, rồi ăn mừng liên hoan là xong
ấy mà!(3) Cho nên việc VN có số TS-PTS đông gấp bội trong khi số bài báo
nghiên cứu khoa học thấp kém so với các nước láng giềng khác thì có chi là
lạ? Ngay một bài báo bình thường trên các tạp chí hay báo hàng ngày, tác giả
có mấy ai không/quên ghi cái học vị/học hàm để “tăng trọng” cho mình? Điều
kiện “ắt có” là kiến thức khoa học, hiểu biết/khám phá về học thuật nhưng
chỉ “đủ” khi người mang danh trí thức trung thực và khiêm tốn. Phải chăng
đây là những điều không thể chấp nhận hay rất hiếm trong xã hội chúng ta ?
“Không ai có thể phủ nhận rằng một trong hai chức năng của giáo dục trên
Đại Học là đào tạo ra các nhà khoa học và nghiên cứu học thuật. Dù là nghiên
cứu cơ bản hay ứng dụng cũng phải được tự chủ độc lập mới có thể đạt được
trình độ “quốc tế” mà chúng ta hằng mong mỏi nhưng với cơ chế “cài then khóa
chốt”, nhất là lĩnh vực nghiên cứu những ngành khoa học xã hội hoặc nhân
văn, như hiện nay thì liệu cái tiêu chí mà bộ GDDT mới đưa ra gần đây là vào
năm 2020-2025 sẽ có 5 Đại học có trình độ lọt vào cửa 400 đại học hàng đầu
trên thế giới(xem lộ trình—) tại cuộc hội thảo “xây dựng trường đại học đẳng
cấp quốc tế tại VN – Cơ hội và thách thức” (do Bộ GD-ĐT phối hợp với Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức) vào ngày
12/9/2009 tại Đà Nẵng có đạt được hay không, có phải là một chỉ tiêu “thành
tích” hay là cái cớ để xin tiền hoặc chấp thuận để đi vay nợ được chính phủ
đảm bảo. Trong khi đó, cái gọi là “trình độ quốc tế” của Đại học là gì thì
hình như các quan chức ngành giáo dục chỉ hiểu loáng thoáng, thông qua số
bài báo đăng trên tạp chí học thuật quốc tế (trước mắt là một bài với luận
văn tiến sĩ ) hay sao ?(4) Theo GS Hoàng Tụy,
căn bệnh thời đại của trí
thức VN là “Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước”.
Những người được đào tạo trước đây
“dễ bị lâm vào thế ếch ngồi đáy giếng, dễ
mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không
chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự
đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có
thật”(5)

Rạng rỡ ngày ra trường với mũ mão áo quần rất xinh xắn…
“Việc công nhận bằng cấp cao ở đại học
vẫn còn là vấn đề phải được mổ xẻ, trình độ nghiên cứu có tương xứng với học
vị hay là một sự ban phát, chạy theo thành tích ảo huyền mà việc “nâng”(có
người còn gọi là “lên đời”) người có học vị Phó tiến sĩ thành Tiến Sĩ là thí
dụ cụ thể, điều buồn cười nhưng lại được các nhà trí thức khát khao “học vị”
thỏa mãn ! Con số nầy là 8,000 người chứ ít ỏi gì (như trên đã nói hiện
nay cả nước có tới 24.300 TS, 101.000 ThS) và điều đáng nói hơn là trên
70% người có học vị Tiến sĩ hiện nay là quan chức nhà nước chứ không phải là
nhà nghiên cứu như nội hàm của học vị nầy”(6)
Trên báo Lao Động, ông Lê Chân Nhân nêu
lên một sự thật ”Giả sử như có 100% cán bộ chính quyền có học vị tiến sĩ,
nhưng trong đó còn có nhiều trường hợp thiếu thực chất, thì việc đạt mục
tiêu số lượng bằng cấp phỏng có ích gì. Chưa kể, khi đặt ra mục tiêu bằng
cấp, nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì nạn "sinh đồ ba quan", mua bán
bằng cấp, tiêu cực trong thi cử lại có cơ hội bùng phát để phản biện chủ
trương 100% “tiến sĩ hóa” của thành phố Hà Nội(7)

Hôm nay em đã…tiến sĩ tương lai rồi!!!
Phải nên nhớ rằng” Cách sử
dụng nhân tài còn tùy thuộc vào lý lịch cá nhân, tổ chức (nhân sự, biên
chế), hệ “tư tưởng”, vị trí trong-ngoài Đảng, tệ nạn “bè phái” và đối xử
phân biệt trong học thuật(8). Do vậy “Hệ quả của việc chạy theo “số
lượng”nầy đã nẩy sinh không biết bao nhiêu vấn đề gây nhức nhối cho học sinh
lẫn người thầy có lương tâm khi xã hội hóa đã biến giáo dục đại học-cao đẳng
trở thành một loại “hàng hóa” không-kiểm-định-chất lượng(giáo dục dỏm và
giả) của thị trường mà bộ chủ quản không kiểm soát nổi “(9)
Trước đây GS Simon Marginson
(Australia) đã cảnh báo ” đổi mới từ gốc đến ngọn văn hoá quản lý chất
lượng, đặc biệt là sự tự do học thuật. Người ta sẽ không thể sáng tạo được
nếu chính sách rập khuôn” là điều cần được suy ngẫm đối với các vị lãnh đạo
và các nhà hoạch định chính sách khoa giáo ở nước ta”(10). “Bộ cho mở
tràn lan các trường ĐH, CĐ nhưng chất lượng nhiều nơi thấp, nhất là đào tạo
tại chức, từ xa. SV ra trường khó xin việc vì mất cân đối cung cầu. Gần đây,
Bộ lại có chủ trương đào tạo cấp tốc 20 ngàn tiến sĩ, gây xôn xao dư luận.
Có phải Bộ đang làm quy trình ngược, lo cho phần ngọn mà không lo phần
gốc?”(Đại biểu Lê Văn Cuông -Thanh Hóa tại phiên họp thứ 4, Quốc hội khóa 12)
và điều cảnh báo trước kia này nay đã thành một sự thật đau lòng nhưng ai
cũng ngoảnh mặt làm ngơ, xem như đây là một thực tế xã hội chứ chẳng phải là
đi từ một chính sách giáo dục và đào tạo nhân tài đã sai lầm từ gốc, hiện
trạng thê thảm nhất là khi tốt nghiệp ra trường mà vẫn thất nghiệp?(11)

Đầu tư cho nghiên cứu khoa học là một mũi nhọn quan trọng
trong tiến trình đổi mới giáo dục
Hơn thế nữa “2 tỷ USD vốn vay ODA đem
lại lợi ích gì cho giáo dục Việt Nam?” là câu hỏi của TS Đặng Văn Định đăng
trên báo GDVN ngày 27/8/2015 đang làm nhức nhối những ai quan tâm đến thực
tế là tiền vay mượn từ nước ngoài đang đi đâu và về đâu. Xin nêu một thí dụ
điển hình, đó là tại báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư viết “Chương trình
phát triển chính sách giáo dục đại học do WB tài trợ với số vốn vay là 150
triệu USD, thời gian thực hiện: 2009-2013. Dự án nhằm hỗ trợ thực hiện các
chính sách tăng cường quản trị, tài chính và chất lượng giáo dục đại học”.
“Nếu tính ra Việt Nam đồng thì số vốn này lên tới 3000 tỷ đồng – một con số
rất lớn đối với nền kinh tế nước ta nói chung và lĩnh vực giáo dục nói
riêng. Thế nhưng rất đáng tiếc là tác động của dự án đến những vấn đề lớn
của hệ thống giáo dục đã không được luận giải” ông Định thắc mắc (12)
9/2015
Chú thích:
(1)
Kỳ Duyên “'Trận chiến' mới của nước Việt và thời ra ngõ gặp... Giáo sư”
(
http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/259139/-tran-chien--moi-cua-nuoc-viet-va-thoi-ra-ngo-gap----giao-su.html)
(2) Phấn đầu đạt 10 trường ĐH tiêu
chuẩn quốc tế vào năm 2010
http://www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=149147&Catid=71
Xem Quyết định số 121/2007/QĐ-TTg ngày 27/7/2007
của Thủ tướng Chính phủ và QUYẾT ĐỊNH
Số: 1505/QĐ-TTg, ngày 15 tháng 10 năm 2008 do PTT Nguyễn thiện Nhân ký
Dự kiến lộ trình xây dựng trường ĐH đẳng cấp quốc tế ở VN
Giai đoạn 2009 – 2020:
- Xây dựng 5 trường
ĐH quốc tế với sự tham gia của 5 quốc gia và 100 ĐH thành viên
- Xây dựng 20 trường ĐH mạnh, đạt trình
độ trung bình so với quốc tế(20 trường này là ĐH nghiên cứu)
- 180 trường ĐH còn
lại yếu so với quốc tế; 250 trường cao đẳng trung bình và yếu so với quốc tế
Sau năm 2025:
5 trường ĐH đạt đẳng
cấp quốc tế (có thứ hạng từ 200 – 400 thế giới)
20 trường ĐH mạnh và khá so với quốc tế
200 trường ĐH khác
trung bình so với quốc tế
300 trường cao đẳng trung bình so với
quốc tế
(Theo báo cáo chính thức của Bộ GD-ĐT tại
hội thảo)
Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng 4 trường
ĐH đẳng cấp quốc tế (ở Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Cần Thơ với vốn vay khoảng
400 triệu USD từ ADB và WB). Thông tin từ hội thảo cho hay, đây là
chi phí trong giai đoạn đầu tiên. Giai đoạn tiếp theo sẽ phải đầu tư nhiều
hơn nữa, có thể lên tới 500 triệu đến 1 tỷ USD cho mỗi đại học(http://vietnamnet.vn/giaoduc/2008/09/805433/)
Trích từ “Không cần sáng tạo, chỉ
cần làm theo”(HLT)
Năm 2008,
Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân nói rằng “Bản thân gia đình muốn con em học đại
học (ĐH), địa phương muốn có trường, cùng với việc kiểm tra chất lượng chưa
tốt nên đã bùng nổ trường ngoài công lập (CL)” và "nếu người học thận trọng
chọn lọc kỹ, có lẽ đã không tạo ra tốc độ tăng các trường ĐH, CĐ nhanh như
hiện nay từ 110 trường ĐH và CĐ năm 1997, đến nay, chúng ta đã có thêm 200
trường ĐH, CĐ nữa” trong khi trả lời chất vấn ngày 11/11/2008 tại quốc hội.
Ông đã qui trách nhiệm cho sự khập khiễng của đại học và cao đẳng hiện nay
là do các địa phương chạy đua lập trường cũng như sinh viên không biết chọn
lựa cho mình giữa lúc Bộ GD-DT chưa có tiêu chuẩn thành lập(!) và hiện nay
cũng không có chuẩn đào tạo đầu ra. Không biết khi số đại học lên đến con số
600 trường như kế hoạch của Bộ GD-DT thì lúc ấy Bộ trưởng Nguyễn thiện Nhân
sẽ còn đổ lỗi vào những ai trong khi việc cấp phép thành lập đại học là do
chính bộ nầy đề nghị Thủ tướng phê duyệt . Tóm lại, thử hỏi như vậy thì
trách nhiệm thuộc về ai, người cấp giấy phép hay người xin mở đại học, vậy
mà Bộ trưởng quên hay “giả vờ” không biết …“Mọi người vẫn còn nhớ, lúc mới
nhiệm chức Bộ trưởng Bộ GD-DT vào tháng 7/2006, Ông Nguyễn Thiện Nhân đã đưa
ra một hình ảnh vô cùng sáng sủa và tràn trề hi vọng, rằng “Với truyền thống
hiếu học, truyền thống tôn sư trọng đạo, với thế và lực mới của đất nước sau
20 năm đổi mới, với quyết tâm chiến lược của Đảng coi phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu, với lòng yêu nghề và quyết tâm tự khẳng định của hơn 1
triệu thầy cô giáo trong cả nước, với sự quyết tâm và chia lửa của hàng
triệu người VN là đồng tác giả của sự nghiệp chấn hưng giáo dục, tôi tin là
trong 10 năm tới nền giáo dục VN sẽ có những bước phát triển mới, xứng đáng
với đòi hỏi của sự nghiệp hiện đại hóa - công nghiệp hóa đất nước, với mong
muốn và tin cậy của nhân dân cả nước, với truyền thống văn hiến của dân tộc
VN''” ?( HLT--Nền giáo dục
Việt Nam nên củng cố từ đâu , giáo dục Mầm non hay đào tạo Tiến sĩ ?)
(3)Hiện
tượng sao chép luận văn , viết theo bài mẫu làm sẵn, từ luận văn
cử nhân đến tiến sĩ rao bán trên mạng với giá rẻ, mua về gia cố, bổ sung
thêm thắt ý làm vừa lòng Giáo sư hướng dẫn, nghiên cứu giả tạo và tìm cách
chạy chọt đủ kiểu để được xét duyệt cấp phát bằng cấp không phải là hiện
tượng hiếm. Ngay ở Đức hay ở Nga, tệ nạn mua bán luận văn, bằng cấp gần đây
đã bị phát hiện. Giá một mảnh bằng Tiến sĩ ở Đức không quá 30,000 euro
thông qua một đường dây rộng khắp nước Đức. Ở Nga thì các công trình nghiên
cứu khoa học nhân văn thời Sô Viết được đem ra “xào” lại, 50% bằng TS ở Nga
bị nghi ngờ là loại bằng được cấp phát với giá không đến 10,000 euro. Nhật
Bản vốn là một nước phát triển, có tiếng nghiêm túc nhưng trong năm
2007-2008 vừa qua người ta phát hiện hàng loạt vụ mua chuộc 33 giáo sư hướng
dẫn luận văn Tiến sĩ ở Đại học Y khoa Tokyo, và một vị GS uy tín trong ngành
Y ở đại học thành phố Nagoya nhận “quà biếu” tương đương với 15,000 USD của
5 nghiên cứu sinh TS cũng đã bị
truy tố trước pháp luật. Không kể ở Hoa Kỳ, việc cấp bằng
TS theo hệ thống tín chỉ kể cả thời gian thâm niên trong nghề nghiệp liên
quan, các bài viết (hoặc bài báo) trước đó cũng được cộng thêm vào nhằm
chiêu dụ lớp chủ doanh nghiệp nộp tiền đăng kí để lấy bằng TS cho “oai” hoặc
để quảng cáo thương hiệu là điều khá phổ biến[HLT--Ngộ nhận hay cố ý về
“Tiến Sĩ”--
http://vietsciences.free.fr/vietnam/donggopxaydung/ngonhanhaycoy.htm
Kỹ sư Nguyễn Đăng Lương:”Tôi được biết,
rất nhiều luận văn thạc sĩ, tiến sĩ chỉ là trò lắp ghép. Cứ lấy cái nọ cắm
vào cái kia, ăn cắp của người khác rồi ghép lại và tự xưng là của mình.
Không thể chối cãi là đang có một sự xuống cấp về mặt đạo đức. Đừng đổ lỗi
cho nền kinh tế thị trường khi bản thân mỗi người không trọng danh dự”
Tiến sĩ Nguyễn Văn Tri: Ngoài vấn đề đạo
đức, cần nói thêm, việc sao chép kết quả nghiên cứu khoa học không chỉ có
hại cho sự phát triển, tạo sự không công bằng trong xã hội mà còn làm ảnh
hưởng đến tiến độ hội nhập của nước ta với quốc tế, niềm tin của các nhà đầu
tư, chuyển giao công nghệ...
( “Sao chép” khắp
nơi: Đạo đức suy hay quản lý thiếu năng lực?”
báo Người Lao Động ngày 17/12/2004)
Nhà báo Văn Quang viết ”Dân gian chua
chát lưu hành câu “thứ không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều
tiền”. Cũng có nhiều anh mua cái bằng chỉ để treo trong nhà cho nó “oách”
hoặc làm mồi nhử một cô gái ngây thơ thích bằng cấp và thích có tí “danh gì
với núi sông”… Tất nhiên có khá nhiều ông “làm việc nước” muốn thăng tiến
cùng với “thăng tiền” mua cái bằng tiến sĩ hay thạc sĩ gì đó nộp vào hồ sơ.
Mất 200 triệu chứ mất 2 tỉ hay hơn thế cũng còn lời chán. Nếu có bị đánh
tham nhũng thì “hy sinh đời bố củng cố đời con” cũng vẫn còn lời – Tuy nhiên
xin mở ngoặc là chuyện này khó xảy ra, xác suất là 1/1.000.000 như kiểu
trúng số độc đắc vậy –. Nói sơ sơ thế để các bạn hiểu rằng ở VN chúng tôi
dân trí cao lắm (xin đừng nhầm là “cáo lắm” đấy). Cho nên không xuất khẩu
thì để trang trí làm cảnh à? Nếu thực sự chỉ dùng để trang trí thì quả thực
đất nước VN có thể xếp vào loại xa xỉ nhất thế giới khi sử dụng một nguồn
lực khổng lồ như vậy chỉ để mà chơi và trang hoàng cho đẹp mắt.( “Xuất
khẩu tiến sĩ Việt đi đâu?” Văn Quang--
http://www.danchimviet.info/archives/92344/xuat-khau-tien-si-viet-di-dau/2014/12
Hai bài báo
tuy đã cũ nhưng rất đáng đọc:
Và bài mới toanh:

Việt Nam và những “tụt hậu” vài chục năm so với khu vực
Việt Nam đi sau Thái Lan 20 năm,
Hàn Quốc 35 năm
http://vietnamnet.vn/vn/kinh-te/259068/viet-nam-di-sau-thai-lan-20-nam--han-quoc-35-nam.html
Nhìn lại ODA cho giáo dục và đào tạo
(ĐBND 28-8-15)
(4) Không
cần sáng tạo, chỉ cần làm theo(HLT)
[http://vietsciences.free.fr/vietnam/donggopxaydung/khongcansangtaochicanlamtheo.htm]
(5) như
trên
(6) tlđd
(7) (8)
tlđd
(9)
HLT--Nền giáo dục Việt Nam nên củng cố từ đâu , giáo dục Mầm non hay đào tạo
Tiến sĩ ?)
(10) như
trên
(11) …ngày
20/7/2015, thống kê của Viện Khoa học lao động và Xã hội cho biết, trong 03
tháng đầu năm, cả nước có hơn 1,1 triệu người thất nghiệp, tăng 114.000
người so với cùng kỳ năm 2014. Số lao động trình độ ĐH, sau ĐH thất nghiệp
tăng từ hơn 162.000 lên gần 178.000 người; tăng khoảng 16.000 so với cùng kỳ
năm 2014. Lao động tốt nghiệp CĐ thất nghiệp tăng từ 79.000 người lên hơn
100.000; lao động không có bằng cấp từ gần 630.000 lên 726.000. Đáng chú ý,
tỷ lệ thất nghiệp cao nhất lại nằm ở … nhóm có trình độ CĐ chuyên nghiệp và
CĐ nghề, tương ứng là 7,2% và gần 6,9%. Nhóm không có bằng cấp, chứng chỉ tỷ
lệ này chỉ ở mức 1,97%
(theo Kỳ
Duyên-- 'Trận chiến' mới của nước Việt và thời ra ngõ
gặp... Giáo sư”).
TS Nguyễn
Đình Cung cảnh báo “Chúng ta tự hào về tăng trưởng bình quân 7% nhưng giai
đoạn từ 2008 trở lại nay chỉ còn hơn 5%. Nguy cơ tụt hậu của Việt Nam rất
lớn nếu không thay đổi. Nếu tăng trưởng 5% thì đến 2035, GDP bình quân đầu
người của Việt Nam mới bằng 75% của Trung Quốc hiện nay, và bằng 83% của
Thái Lan. Nếu tăng trưởng 7%/năm từ nay đến 2035 thì may ra đến 2035 mới
đuổi kịp được các nước”( Đã quá ‘tụt hậu’ còn nguy cơ gì nữa?”) vì theo TS
Trần Đình Thiên thì "Không nên nói nguy cơ tụt hậu vì chúng ta đã tụt hậu
rồi".
(12) Giai đoạn 2004 - 2014, vốn
ODA dành cho lĩnh vực giáo dục đào tạo và dạy nghề đã lên tới là hơn 2 tỷ
USD, chiếm khoảng 3,5% tổng số vốn ODA ký kết của cả nước.
( TS.Đặng Văn Định-- 2 tỷ USD vốn
vay ODA đem lại lợi ích gì cho giáo dục Việt Nam?)
|