Những nhà khoa học bị lãng quên trong giải Nobel  

Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng    13/09/2006
 

Những bài liên quan:
 
 
Một họa sỹ Nhật Bản bị tước giải thưởng vì “đạo” tranh
 Ngụy tạo, đạo văn và tham nhũng trong nghiên cứu khoa học
 Khoa học và thương trường: mâu thuẫn, quyền lực và liêm chính
 
Ai là Cha Đẻ cuả Ngành Nhiếp Ảnh?
 Những nhà khoa học bị lãng quên trong giải Nobel

 Lise Meitner
 

Edouard Branly

Heinrich Rudolf Hertz Edouard BRANLY
Heinrich Hertz Edouard Branly (ngồi)

Heinrich Rudolf Hertz (1847-1894) và Edouard Branly (1844, 1940), mà nghiên cứu của  họ là nguồn gốc của công trình điện báo vô tuyến của Guglielmo Marchese Marconi (1874-1937). Ủy ban xét duyệt giải Nobel  vật lý năm 1909 đã quên Edouard Branly mặc dù lần đầu tiên đường dây điện báo Morse được nối qua biển  Manche giữa Wimereux và Douvres ngày 28 tháng 3 năm 1899 đã được ông Marconi xác nhận là có gởi lời trân trọng tán thưởng tới ông Branly bằng điện báo xuyên qua biển  Manche. Kết quả tốt đẹp đó đáng  lẽ một phần là công trình của ông Branly. 

 

Guglielmo Marconi

Guglielmo Marconi
Guglielmo Marconi

Một giai thoại: Bộ Bưu điện và Điện báo Ý từ chối không giúp đỡ  tài chính cần thiết cho Marconi sau khi ông giới thiệu các công trình mà  họ cho là ngông cuồng. Bởi vậy Marconi qua Anh quốc để  tiếp tục nghiên cứu về  việc truyền sóng (transmission des ondes) cho British Post Office. Nhưng chính tại nước Ý mà  ông mở dịch vụ điện thoại vô tuyến (1914) nhờ những  kỳ công về  kỹ thuật của  ông cuối cùng đã được công  nhận sau khi được lãnh giải.  

Sau lần tỏ lòng  kính trọng đó, nhà  khoa học  Pháp Edouard Branly nhận được huy hiệu Chevalier de la  Légion d'Honneur  nhân  cuộc triển  lãm quốc tế năm 1900 tại Paris, nhưng  ông  không được mời để chia giải thưởng  Nobel với người học trò  nổi tiếng  của  ông.  

 

 

  Charles Best

Frederic Banting và Charles Best

John McLeod

 

Charles Best(1899-1978)

Năm 1923,  Sir Frederick Grant Banting (1891-1941), người khám phá ra insuline, đã chia giải Nobel Y khoa với John McLeod trong lúc đó đáng lẽ Charles Best  mới là người xứng đáng chung giải với Frederic Banting. 

John McLeod chỉ là người đã  người đã chia cho ông  một góc  phòng thí nghiệm, một người phụ tá  và  các con  vật thí nghiệm  trong  hai tháng hè, khi ông  Banting ghé qua Scotland. 

Tức giận vì người cộng sự  gần nhất của  ông là Charles Herbert Best  không được chung chia gii Nobel một cách bất công, ông  chia phần của công cho  Charles Best. Sau đó ủy ban xét duyệt Nobel nhận là có sai lầm nhưng họ không có phương tiện nào để sửa lại, vì những quyết định đã ra rồi không thể quay trở lại được.

 

 

Paul Portier

Những khó chịu đã làm hoen  ố  y hệt như trên, là giải Nobel Y học cho Charles Richet, John Michael và  Harold E. Varmus

Charles Richet

Charles Richet (1850-1935)

Trang đầu luận án của Richet

Charles Richet lãnh giải Nobel năm 1913 vì những công trình của  ông về anaphylaxie (tính quá mẫn (thuốc), phản vệ, allergie), đồng thời Paul Portier cũng nghiên cứu vấn đề này. Cả hai đều đưa ra công trình nghiên cứu của  mình trước  hội đồng Sinh vật học (1902):  

Chúng tôi gọi "anaphylactique (trái nghĩa với phylaxie) là đặc tính  mà nọc độc có tư chất làm giảm đi thay vì làm tăng tính miễn nhiễm khi chất này được  tiêm vô với liều lượng  không nguy hiểm. Đó là (...) ngược  lại sự  bảo vệ.

Richet tiếp tục nghiên cứu một mình   hiện tượng anaphylaxie vừa  cách xác nhận sự khám phá chung  của họ. Nhưng tiếc thay ông  Portier không những  không được lãnh giải mà  cũng chẳng  được  nêu tên  trong bài diễn văn. Richet cũng chẳng chiếu cố đến người cộng tác của ông để sửa sai sự quên bất ngờ này.

   

 

Dominique Stehelin

Michael John Bishop *1936 Harold Eliot Varmus *1939

Michael John Bishop

Harold Eliot Varmus

 

Sự  khám phá ra nguồn gốc tế bào tạo ra khối u hậu siêu vi trùng (origine cellulaire des  oncogènes rétrovivaux) do John Bishop và Harold Varmus đã được giải Nobel về Y học  năm 1989. 

Nhưng  nhiều nhà  khoa  học và  bác  học  Pháp rất tiếc  vì Dominique Stehelin mới chính là  người khám phá đầu tiên  khi ông chỉ  mới làm thực  tập hậu tiến sĩ năm 1976 tại phòng  thí nghiệm của Bishop và Varmus tại Đại học California, San Francisco.

Không  vừa  ý vì  đã bị loại , Dominique Stehelin viết một bức thư ngỏ cho Folke Sjoqvist, chủ tịch hội đồng giải thưởng Nobel để yêu cầu xét lại quyết định. 

Để chấm dứt vụ  này, Bishop vội vã xác định nhân cuộc  hội thảo với báo chí: Thời gian  mà  ông Stehelin làm việc  trong  phòng thí nghiệm của  chúng tôi là có lợi cho ông ấy về sau, cũng  như chính chúng tôi cũng  đã hưởng được  những đóng  góp của  ông  ta cho công trình của chúng tôi. Chúng tôi vô cùng kính trọng ông  trên tư cách một  nhà  khoa học và chúng tôi biết ơn những thí nghiệm của  ông đã làm, đã thiết lập lần đầu tiên rằng  những tế bào của khối u hậu siêu vi trùng là xuất phát từ những  gene tế bào. Nhưng  phải cần rất nhiều thí nghiệm khác để thiết lập một cách vững  vàng mà chúng tôi đã chứng  minh trong  bài báo của chúng tôi (báo Le Monde, 9/12/1989). 

Theo giáo sư Alain Riou (Viện Gustave Roussy, Villejuif): Từ lúc Nobel cho giải cho công trình từ năm 1976 thì  Stehelin phải là người đứng chung giải Nobel.

Để chấm dứt cuộc  luận chiến, giáo sư Jean Lindstein, thư ký hội đồng giải Nobel Y học, nhắc  lại với báo chí là  những  người được giải Nobel được  chọn lựa trong số  các  thí sinh được  đề nghị bởi hội khoa học thế giới, chiếu đúng theo điều lệ của hội đồng Nobel. Vậy  sự  quên này cũng  không  thể quy trách nhiệm cho ông chủ tịch.  

 

 

  Lise Meitner

Lise Meitner (1878-1968) Otto Hahn (1879-1968)

Lise Meitner cũng  là một trường  hợp tương tự. Nếu chỉ  mỗi một mình tên  (Hóa  học, 1944) được viết lên tài liệu của fondation Nobel thì đó chỉ  là vì  lý do chính trị.  Nhà  vật lý hạch nhân Lise  Meitner hướng dẫn dự án về  uranium và sự phân rã các hạt nhân nặng  ở Berlin  trong  4 năm.  Thế  giới đại chiến thứ II được tuyên bố với những ngược đãi tàn nhẫn đối với các cộng đồng Do Thái làm bà  phải  tị nạn  ở Stockholm, nơi đây bà  vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu của  bà  với bạn Otto Hahn của bà.

Để tránh hiểm nguy cho cuộc sống của  bà, bà không  ký tên lên bài tiểu luận  báo tin đã  khám phá chất baryum, căn bản cho  phản  ứng  hạch tâm dây chuyền. Mọi người tiếc vì công của bà  đã  không  được  nhận chính thức từ khi hết chiến tranh.

 

© http://vietsciences.free.fr  , http://vietsciences.org  và http://vietsciences2.free.fr  Võ Thị Diệu Hằng