Lời nói
đầu
Bài này viết
để giới thiệu về nền văn minh Đông Sơn và sự liên hệ
của văn minh Đông Sơn với các văn minh khác trong
vùng (như Sa Huỳnh). Thể viết của bài không có mục
đích chuyên sâu nghiên cứu nhưng cũng không phải
thông tin nhẹ như đối tượng của báo chí bình thường
mà ít có trọng lượng về phần tìm hiểu. Phần tư liệu
từ nhiều nguồn và được chú thích trong bài để các
bạn muốn tìm hiểu thêm.
Sự hiểu biết
về văn hóa Đông Sơn còn được nhiều đóng góp về sau
này nên sẽ không ngạc nhiên khi có những thuyết và
tranh luận giữa các nhà khoa học nghiên cứu về nguồn
gốc, biểu tượng, văn hóa Đông Sơn.
Từ các thập
niên 50 đến 80, các nhà học giả Việt nam đã khai
quật khám phá và đóng góp nhiều hiểu biết quan trọng
về văn hóa Đông Sơn và công bố trong các tạp chí
Khảo cổ học, Lịch Sử, Xã hội, các hội nghị khoa học
trong và ngoài nước. Nhiều nghiên cứu có giá trị của
Hà Văn Tấn, Chử Văn Tần, Phạm Văn Kỉnh, Diệp Đình
Hoa, Phạm Minh Huyền.. bằng quốc ngữ chưa được biết
nhiều ở các học giả nước ngoài .
Đáng chú ý,
là từ các di chỉ tiền Đông Sơn khám phá ở các vùng
trung du và đồng bằng Bắc bộ đến các nghiên cứu về
dân tộc và xã hội học, ta có thể thấy sự phát triển
liên tục của văn hoá, văn minh Đông Sơn và cho thấy
tính chất nội sinh và bản địa của nó. Các yếu tố ảnh
hưởng từ ngoài, mà nguồn chính là từ vùng thảo
nguyên Trung Á, thể hiện ở một số nhỏ hoa văn động
vật và phong cách, cho thấy sự trao đổi văn hoá,
kinh tế qua con đường từ trung du Bắc bộ đến Vân Nam
và Tứ Xuyên qua sự trung gian của văn hoá Điền ở
vùng Hoa nam.
Các điều
kiện nghiên cứu tuy không đầy đủ như ở các nước
khác, nhưng phẩm chất và nội dung rất phong phú. Ông
Tạ Chí Đại Trường, một sử gia miền Nam trước 1975,
trong một bài báo gần đây ở Mỹ, đã chỉ trích các
nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam là quá thiên về sự
tự hào dân tộc và hoài nghi về các kết quả nghiên
cứu. Ông ngay cả chỉ trích nhà sử học Mỹ Keith
Taylor đã đến Việt Nam học hỏi và nghiên cứu các kết
quả cùng với các nhà khảo cổ và sử học trong nước để
kết thúc luận án tiến sĩ của ông mà sau này ông xuất
bản cuốn sách với tựa đề “The birth of Vietnam”. Dĩ
nhiên ngoài các công bố ít nội dung và có tính chất
“diễn văn” mà ta có thể thấy dễ dàng và gạn lọc được
ở các tạp chí khoa học trong nước, các nhà nghiên
cứu vẫn biết được và trân trọng đa số các kết quả
nghiên cứu có giá trị trong nước. Ông Tạ Chí Đại
Trường đã có chút khách quan khi nhận định về khảo
cổ học ở Việt Nam, nhưng khác với ông, tôi cho rằng
các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cũng có giá trị và
đáng trân trọng.
Vừa đây Viện
Khảo cổ học với đã xuất bản quyển sách "Văn hóa Đông
Sơn ở Việt Nam" (Nxb Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1994,
với sự tài trợ của Toyota Foundation tổng hợp một
phần sự hiểu biết về văn hóa Đông Sơn từ các học giả
Việt Nam. Đây là một bước nhỏ trong công việc tổng
quan về vấn đề tìm hiểu văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam.
(1) Sơ lược về khám phá và
nghiên cứu văn hóa Đông Sơn
Năm 1924,
một nông dân làng Đông Sơn (Thanh Hóa), sau cơn nước
lũ, đi câu cá ở bờ sông Mã, ngẫu nhiên phát hiện một
số đồ đồng nằm trong lòng đất nơi bờ sông bị lỡ. Khi
viên thương chính người Pháp, L. Pajot, thích chơi
đồ cổ, mua được số đồ đồng trên và phát hiện sự
tình, đã vội vàng báo cho trường Viễn Đông Bác cổ.
L. Pajot được uỷ nhiệm tiến hành những cuộc đào bới
ở địa điểm trên. Thế là tên làng Đông Sơn trở thành
nổi tiếng dành cho "thời đại đồng thau ở Bắc kỳ và
Bắc Trung kỳ" khi Victor Goloubew ở trường Viễn đông
Bác cổ công bố về các di vật đào được ở Đông Sơn
trên tạp chí khoa học.
Trường Viễn
đông bác cổ (Ecole Francaise d'Extrême-Orient),
thành lập năm 1900, trước đó đã sưu tập được một số
đồ đồng như trống đồng Ngọc Lũ lấy từ chùa Long Đọi
Sơn, Hà Nam (1903) và mua lại từ bộ sưu tập của
Demange và D'Argence (1913 và 1927) mà trước đó họ
đã thâu lượm và mua lại từ dân ở các vùng từ Bắc
Ninh, Hà Đông, Sơn Tây tới Ninh Bình và Thanh Hóa.
Năm 1918, Henri
Parmentier đã công bố sự giống nhau kỳ lạ giữa hoa
văn trên trống Ngọc Lũ với hoa văn trên các đồ đồng
khác trong bộ sưu tập D'Argence. Trước đó, năm 1902,
F. Heger, nhà nghiên cứu người Đức về các trống đồng
ở Đông Nam Á đã xếp trống loại Ngọc Lũ (Đông Sơn) là
trống đẹp và cao thuộc loại I (Heger I) trong 4 loại
trống.
Sự khám phá
ở Đông Sơn đã khởi động cho các cuộc tìm hiểu và
nghiên cứu có hệ thống về thời đồng và văn hóa Đông
Sơn của các học giả nhiều nơi trên thế giới. Năm
1934, nhà học giả người Áo, R. Heine-Geldern đã đề
nghị gọi nền văn hóa đồ đồng ở Việt nam là "văn hóa
Đông Sơn". Từ đó về sau các nhà nghiên cứu về văn
hoá đồ đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung quốc đã gọi
chung nền văn hoá này là văn hóa Đông Sơn.
Sau năm
1954, các nhà khảo cổ Việt Nam đã khám phá ra nhiều
di tích thuộc văn hóa Đông Sơn. Cho đến nay, 125 di
tích đã được phát hiện ở khu vực Sông Hồng, Sông Cả
và Sông Mã ở Việt Nam không kể các di tích Tiền Đông
Sơn (Hà Văn Tấn, "Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam",
1994). Riêng số trống đồng loại I Heger (tức trống
Đông Sơn) đã lên tới 143 chiếc. Trong đó có những
trống đẹp, trang trí gần giống trống Ngọc Lũ, Hoàng
Hạ như trống Cổ Loa phát hiện năm 1982 và trống Hy
Cương phát hiện ở Đền Hùng mới đây. Trong năm 1997,
các trống trên và nhiều trống khác đã được trưng
dụng ở khắp nơi trong cuộc triển lãm đặc biệt về
Thăng Long truyền thống tại Viện Bảo tàng Lịch sử,
Hà Nội
Trong thư
tịch lịch sử Việt Nam cũng có nói đến trống đồng
trong sinh hoạt đời sống như lễ đông cô thời Lý, sứ
Nguyên nghe trống đồng nhiều nơi khi sang Đại Việt
dưới đời Trần. Đáng chú ý là ở chùa Đồng Cổ, Thanh
Hoá có một tấm bảng gỗ khắc năm Bảo Hưng thứ 2 Tây
Sơn (1802) của Tuyên Công Nguyễn Quang Bàn, con trai
Nguyễn Huệ, ghi chép khá tỉ mỉ về trường hợp phát
hiện và đo đạc khảo tả chiếc trống đồng cổ đặt trong
chùa (1). Về sau chiếc trống này được người Pháp đưa
vào trường Viễn đông Bác cổ. Trong luật Hồng Đức thờ
Lê cũng có nói đến điều lệ trừng phạt lấy cắp hay
phá hỏng tượng Phật và chuông dồng cổ. Có thể nói
việc sử dụng trống đồng dần dần biến đi sau đời Trần
cùng với các trống đồng.
(2) Niên đại và nguồn gốc Đông
Sơn
Thuyết cho
rằng kỹ thuật làm trống đồng được truyền từ các các
bộ tộc ấn-Âu (Indo-european) sang Nam Trung quốc
rồi từ đó xuống Bắc Việt Nam lúc đầu đã được nhiều
học giả như Parmentier, Finot, Maspero .. chấp nhận.
Giả thuyết này được nghiên cứu từ sự giống nhau giữa
các hoa văn, kỹ thuật của trống Đông Sơn và trống
đồng của các bộ tộc indo-european. Cách đây vài năm
và gần đây (đầu năm 1998), các nhà khảo cổ Trung
quốc và phương Tây đã khám phá và công bố một vài mộ
chôn của các người bộ tộc indo-european, Tochara, ở
miền Tây TQ và cho thấy họ đã đi đến vùng này và gần
hơn ở Nam và Bắc Trung Quốc. Những người này sau đó
bị tuyệt chủng. Sự khám phá này cho thấy giả thuyết
trên có thể đúng nhưng cần có sự nghiên cưú kỷ lưỡng
hơn.
Mặc dầu
không thống nhất trong sự xác định về niên đại của
trống đống và văn hoá Đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung
Quốc, hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng thời gian
này kéo dài từ khoảng thế kỷ 9BC đến thế kỷ 1 sau
công nguyên. Thời gian này tương đương với thời Hùng
Vương đến giai đoạn đầu của Bắc thuộc trong lịch sử
Việt Nam.
Theo Đào Duy
Anh, căn cứ vào thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam,
thi văn hoá Đông Sơn khởi từ thế kỷ 8BC đến thế kỷ 1
sau công nguyên. Ông chia ra làm 3 giai đoạn phát
triển: giai đoạn 1 là giai đoạn hưng thịnh điển hình
với các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ tương đương với thời
kỳ hưng thịnh Hùng Vương. Giai đoạn 2 là giai đoạn
tiến triển với trống Việt Khê, thạp Đào Thịnh, tương
đương với cuối thời Hùng Vương và An Dương Vương.
Giai đoạn 3 là giai đoạn suy vi, tương đương với
thời kỳ đầu Bắc thuộc, Tây Hán và Đông Hán. Trần
Mạnh Phú dựa vào diển biến hoa văn trên trống đồng
cũng chia văn hoá Đông Sơn ra 3 giai đoạn như trên
của Đào Duy Anh với giai đoạn 3 thuộc thời đại dồ
sắt từ thế kỷ 2 trước công nguyên đến đầu thế kỷ 1
sau công nguyên.
Nhà khảo cổ
Phạm Văn Kỉnh và Lê Văn Lan chia văn hoá Đông Sơn
theo thời đại khảo cổ: giai đoạn đầu (sơ kỳ) của
thời đồng thau với di tích của văn hoá Gò Mun, giai
đoạn trung kỳ thuộc vào thời kỳ hưng thịnh đồng Đông
Sơn và giai đoạn cuối là thời đại sắt cũng là mạt
vận của văn hoá đồng Đông Sơn với đồ Tần-Hán có mặt
bên cạnh đồ bản địa Đông Sơn, từ thế kỷ 3 trước công
nguyên đến thế kỷ 1 sau công nguyên.
Hà Văn Tấn
thì cho văn hoá Đông Sơn ở 2 giai đoạn: giai đoạn
đồng thau và giai đoạn sắt. Nguyễn Linh thì không
chia văn hoá theo giai đoạn mà nhìn tổng quan văn
hoá Đông Sơn nằm trong thời hưng thinh và suy vong
của thời đại đồng thau, từ thế kỷ 7 trước công
nguyên đến khi nhà Hán sang cai trị cũng là lúc mạt
vận của văn hoá Đông Sơn .Chử Văn Tần cũng như
Nguyễn Linh coi văn hoá Đông Sơn tổng quan trong
giai đọan cuối của một nền văn minh Đông Sơn khởi từ
văn hoá Phùng Nguyên.
Phạm Minh
Huyền chứng minh trong nền văn hoá Đông Sơn có sự
phát triển khác nhau ở các địa phương, sớm nhất ở
vùng sông Hồng rồi đến sông Mã. Sự kết thúc cũng
khác nhau đánh giấu sự xuất hiện của đồ minh khí và
tăng trưởng của đồ ngoại lai. Ông chia văn hoá Đông
Sơn thành ba loại hình cơ bản: loại hình sông Hồng,
loại hình sông Mã và loại hình sông Cả. Các loại
hình có một số nét phong cách địa phương.
Cũng nên
nhắc lại là từ miền Nam Trung Quốc xưa kia ở vào
khoảng niên đại của trống đồng (thế kỷ 9 BC đến thế
kỷ 2 AD) là vùng cư ngụ của các bộ tộc Bách Việt
trước khi bị Hán hoá. Ở đây, văn hoá Đông Sơn cũng
phát triển ở các bộ tộc vùng Hoa Hạ. Các lễ nghi,
sinh hoạt của các dân trong thời này đã cho thấy rõ
ràng tính chất của văn hoá Đông Sơn.
Bửu Cầm (2),
trong bài triển khai từ nghiên cứu của Lăng Thuần
Thanh “Đồng cổ đồ văn dữ Sở từ Cửu ca” (đăng trong
Quốc lập trung ương nghiên cứu viện viện san đệ nhất
tập, Đài bắc 1954, tr. 403-417) cho thấy họ Lăng
dùng bài Đông quân trong Cửu ca của người dân Sở và
những tài liệu dân tộc học về người A-Mi ở Đài Loan,
người Nagas ở Assam cùng người Dayak ở Borneo để
giải thích hình chạm trên trống đồng. Theo Bửu Cầm,
Cửu ca của dân tộc Sở chẳng khác gì những bài “văn
chầu” của đạo “thờ chư vị” ở nước ta. Nước Sở ngày
xưa tuy rộng lớn nhưng dân tộc Sở không quá phức
tạp, phần nhiều là giống Bộc, Lão tức Việt tộc, hoặc
nói theo ngôn ngữ đời nay là giống Indonesian. Chính
Sở vương Hùng Cừ đã nói: “Ta là man di, không cùng
hiệu thụy với Trung quốc”.
Đồ đồng và
trống đồng khám phá ở khu vực đông Nam Trung quốc
được chia ra ba nhóm (3b) nằm trên 3 khu vực Tả
Giang, Hữu Giang (giáp ranh với biên giới Việt Nam
hiện nay) và Quế Giang-Tương Giang (giữa tỉnh Hồ Nam
và Quý Châu). Đây cũng là vùng của các nhóm bộ tộc
Việt: Lạc Việt, Câu Đinh, và Tây Âu. Các hoa văn
trên một số trống đồng và rìu đồng giống hoa văn của
nhóm Lạc Việt ở Bắc Việt Nam nhất là các rìu đồng
hình hia tìm được ở vùng bộ tộc Tây Âu. Vùng Quế
Giang của nước Tây Âu giáp với Hồ Nam bên kia Ngũ
Lĩnh là địa phận xưa của văn hoá Sở..
Từ thập niên
60 đến nay, các học giả Việt Nam đã khai quật nhiều
di tích Tiền Đông Sơn và Đông Sơn và đã công bố
nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy có sự
liên tục của các nền văn hoá. Từ đó đã khẳng định là
nguồn gốc kỹ thuật và trống đồng Đông Sơn là nội
sinh từ bản địa chứ không phải di từ bên ngoài vào
(1). Tuy không phủ định là có sự giao lưu văn hoá
giữa Đông Sơn ở Việt Nam, Nam Trung Quốc và vùng
đồng cỏ phía Tây cho đến văn hoá Hallstatt Châu Âu,
nhất là sự tương quan của một số hoa văn như các hoa
văn ngôi sao trung tâm, xoắn ốc, thừng tết.. nhưng
có rất nhiều hoa văn đặc biệt bản địa mà chỉ có ở
Đông Sơn Việt Nam như nhà sàn, thuyền, người mặc áo
lông chim, chim, cá, voi, hổ, hươu, cóc ... . Đặc
biệt “thần thái Đông Sơn” trên trống đồng có tính
chất bản địa Lạc Việt và khác xa với thần thái của
trống đồng và đồ đồng của các văn hoá khác.
Với nhiều
địa điểm dã được khai quật và nghiên cứu, như Gò
Bông, Gò Mun, Gò Chiền, Đồng Dậu, Đường Cổ (Vĩnh
Phú), Thiệu Dương, Quỳ Chử, Núi Nấp, Hoa Lộc (Thanh
Hoá), Rú Trăn (Nghệ Tỉnh).., các nhà khảo cổ học
Việt Nam đã đem lại sự hiểu biết sâu rộng hơn về các
giai đoạn phát triển của văn minh Đông Sơn từ đồng
thau đến sắt từ vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ
tới lưu vực sông Mã . Giai đoạn Đông Sơn mà chúng ta
thường biết từ khi Đông Sơn được khám phá chỉ là
tiêu biểu cho một nền văn hoá phát triển từ khoảng
thế kỷ 2BC đến các thế kỷ sau công nguyên. Những
nghiên cứu trên phương diện địa tầng cũng như di vật
tại các di tích cho biết sự liên hệ của các tầng văn
hoá, như di tích Đồng Đậu chứa 3 tầng văn hoá từ
Phùng Nguyên đến Gò Mun. Các hoa văn của Phùng
Nguyên cũng đã được tìm thấy ở văn hoá Đông Sơn,
cũng như sự chuyển tiêp của các loại hình đồ gốm,
hoa văn trên đồ gốm cho thấy sự kế tiếp của các
truyền thống văn hoá (1)(Chương VI, Hà Văn Phùng).
Văn minh và
văn hoá Đông Sơn có thể được hiểu rộng hơn bao gồm
bắt đầu từ giai đọan văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun, Gò
Chiền cho đến giai đoạn Đường Cổ ở vùng Trung du Bắc
Việt tương đương với giai đoạn Đồng Ngầm, Quì Chử
tới Đông Sơn ở vùng sông Mã, Thanh Hoá (3a). Có thể
tóm tắt văn hoá Đông Sơn là sự liên tục của nền văn
minh Đông Sơn bắt đầu từ giai đoạn văn hoá Phùng
Nguyên ở sông Hồng, văn hoá Quỳ Chữ ở sông Mã và Rú
Trăn ở sông Cả.
Văn hoá |
Sông Hồng |
sông Mã |
Sông Cả |
Niên đại |
Thời đại khảo cổ |
Văn hoá Tiền Đông Sơn |
Văn hoá Phùng Nguyên |
Văn hoá Hoa Lộc |
Nhóm di tích Đền Đồi-Rú Ta |
800-700 |
Sơ Đồng |
|
Văn hoá Đông Đậu |
Nhóm di tích Đồng Ngầm |
? |
600-500 |
Trung Đồng |
|
Văn hoá Gò Mun |
Văn hoá Quỳ Chử |
Nhóm di tích Rú Trăn |
400-300 |
Hậu Đồng |
Văn hoá Đông Sơn |
Loại hình Đường Cồ |
Loại hình Núi Nấp |
Loại hình làng Vạc |
200-100, CN100-200 |
Đồng - sơ Sắt |
Khi nói tới
văn minh Đông Sơn ở Việt Nam, ta có thể hiểu nó bao
trùm thời gian và không gian nói trên ở Bắc Việt
Nam. Đặc trưng nhất của văn minh Đông Sơn là đồ
đồng mà nổi bật là trống đồng. Các nhà khảo cổ Việt
nam đã tìm được rất nhiều trống đồng kể cả trống
đồng loại Heger I đẹp nhất như trống Hoàng Hạ, Cổ
Loa, Hy Cương.. tương đương với trống Ngọc Lũ tìm
được trước đó . Riêng trống đồng loại Heger I đã lên
đến 143 chiếc, chưa kể hơn 100 trống minh khí (1).
(3) Các di tích và di vật văn
hóa Đông Sơn
Di tích
Di tích Đông
Sơn được phát hiện ở khắp Đông Nam Á (Việt Nam, Lào,
Thailand, Indonesia) và Nam Trung Quốc. Việt Nam là
nơi có mật độ và số lượng di chỉ nhiều nhất, tập
trung ở lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Cả, sông
Mã. Di tích cư trú, di tích mộ thuyền được phát hiện
dọc sông Hồng đến Vĩnh Phú, các tỉnh đồng bằng sông
Hồng, sông Đuống, Thanh Hoá, Nghệ An. Đa số các di
tích được khảo sát chi tiết và bảo tồn (một số như
Đông Sơn, Thiệu Dương được khai quật và khảo sát
nhiều lần), ngoài ra còn một số được khai quật “chữa
cháy” khi được khám phá tình cờ ở các công trường,
nhà máy, thuỷ lợi.. các hiện vật được lưu giữ nhưng
không còn di tích bảo tồn .
Ngoài ra ở
Hoa Sơn, Quảng Tây, gần biên giới Trung -Việt hiện
nay, gíap Lạng Sơn là di tích nghệ thuật trên đá lớn
nhất của văn minh con người, với khổ 200m x 40 m các
hình vẽ chạm trên triền núi dọc sông Zuo. Trong các
hình người (phù thuỷ hay chiến sĩ cầm gươm có vòng ở
cán), có các hình trống với mặt trời ở giữa.
Đồ đồng Đông Sơn
Đồ đồng Đông
Sơn gồm giáo, riều, mũi tên, chậu đồng, thố đồng..
nhưng nổi bật nhất là trống đồng . Nghề luyện kim đồ
đồng và làm trống đống của người xưa đạt đến cao độ
mà ngay cả gần đây vào các thập niên 60, 70 các
chuyên gia ở Viện Khảo cổ Việt Nam đã bao lần tìm
cách đúc lại các trống đồng mà không thành công.
Công cụ sản
xuất gồm lưỡi cày, lưỡi cuốc, thuổng, xẻng.. dùng
trong nông nghiệp . Đã có hơn 200 lưỡi cày đông Đông
Sơn đã được tìm thấy. Các loại vũ khí gồm có giáo,
lao, tên, nỏ, rìu, dao, kiếm ngắn, tấm che ngực. Mũi
tên có nơi tìm được tới vạn chiếc như ở kho Cầu Vực.
Trong vùng Cổ Loa, mũi tên đã được phát hiện ở nhiều
nơi.
Các đồ dùng
sinh hoạt thì có thạp đồng, thố đồng, bình, lọ,
chậu, nồi, ấm, bát đĩa, thìa ... Một số thạp đồng
Đông Sơn có hoa văn và hình tượng trang trí tỉ mỉ và
đẹp như trống đồng. Thạp đồng nổi tiếng như thạp Đào
Thịnh tượng trưng và thể hiện cao điểm của nghệ
thuật văn hoá Đông Sơn.
Trống đồng
Đông Sơn (Heger 1) cũng đã được phát hiện ở Gia
Lai-Kontum (1921), Thủ Dầu Một, Sông Bé (1934) (3)
và gần đây ở Bình Định (1998) cho thấy ảnh hưởng và
sự liên lạc giữa khu văn mình Đông Sơn và Sa Huỳnh ở
Trung Nam Bộ cho tới khu vực văn hoá Đồng Nai (di
chỉ Dốc Chùa, Sông Bé khai quật năm 1977 đã cho thấy
thời kỳ đồng thau phát triển bản địa tại khu văn hoá
Đồng Nai)..
Đồ gốm
và thủy tinh
Trong đợt
khai quật ở Đông Sơn năm 1967, các nhà khảo cổ Việt
Nam đã tìm đưọc bình gốm cổ cao, vai khép thân thấp,
đặc trưng của loại hình gốm Sa Huỳnh. Trước đây, các
loại hình gốm loại đèn và vịt nước cũng được biết ở
các di chỉ Đông Sơn (7). Đặc biệt có sự tương quan
của các hoa văn trên gốm và hoa văn trên đồ đồng
Đông Sơn.
Rất nhiều đồ
trang sức thủy tinh được khám phá ở các di tích mộ
táng Đông Sơn. Tuy vậy số lượng và chất lượng không
bằng các vật thủy tinh ở các di tích Sa Huỳnh từ
Bình Trị Thiên tới Đồng Nai (trong các mộ chum, điển
hình của văn hoá Sa Huỳnh) nhất là khuyên tai có mấu
và khuyên tai hai đầu thú. Di vật đồ thủy tinh là
chứng cớ khảo cổ cho thấy sự liên lạc và ảnh hưởng
giữa hai văn hoá Sa Huỳnh và Đông Sơn. Mật độ các đồ
thuỷ tinh tìm thấy ở các di chỉ Đông Sơn càng ngày
càng nhiều đi từ đồng bằng sông Hồng xuống phía Nam
và nhiều nhất là ở Làng Vạc vùng sông Cả, Nghệ An.
Trong sự
liên hệ giữa Đông Sơn và Sa Huỳnh, ta nhận thấy đồ
đồng Đông Sơn được khám phá rải rác ở khu văn hoá Sa
Huỳnh (đồ đồng tìm được rất ít ở di chỉ mộ chum Sa
Huỳnh) ngược lại các đồ gốm và đồ trang sức thủy
tinh mang đặc sắc của Sa Huỳnh được tìm thấy ở các
mộ táng và di chỉ Đông Sơn. Các di chỉ mộ chum Sa
Huỳnh ở Hàng Gòn, Dầu Giây, Đập Suối (Xuân Lộc, Đồng
Nai) được xác định bằng C14 vào khoảng cách đây 2300
năm, tức là vào khoảng của niên đại đồng Đông Sơn ở
Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc.
Về màu sắc
và thành phần hoá học, thuỷ tinh Sa Huỳnh và Đông
Sơn tương tự như nhaụ Vòng tai và tay đa số là maù
xanh lá cây già, xanh lơ, xanh lá mạ. Ngoài thành
phần hoá học cơ bản của thuỷ tinh là oxid silic (SiO2),
thuỷ tinh Sa Huỳnh và Đông Sơn không có oxid chì
(PbO). Trong thời đại muộn hơn (vaì thế kỷ sau Công
nguyên), thuỷ tinh tìm được ở Trà Kiệu, Lâm Đồng có
chì. Đây là điều chứng tỏ có sự thay đổ kỹ thuật nấu
thuỷ tinh so với giai đoạn sớm hơn thuộc văn hoá Sa
Huỳnh và Đông Sơn (1).
Ngoài những
di vật đồng và gốm, thủy tinh nói lên sự trao đổi
giữa 2 văn hóa, Hà Văn Tấn (5) đã nghiên cứu những
đồ gốm khai quật ở các di chỉ văn hóa Phùng Nguyên
(mà cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Tiền Việt Mường có
niên đại trước Đông Sơn) và cho thấy có sự liên hệ
với các đồ gốm Lapita khám phá ở các di chỉ các đảo
Nam Thái Bình Dương (New Caledonia, Solomons, Tonga,
New Britain, New Hebrides..). Theo Chử Văn Tần (6),
có sự tương quan rất nhiều giữa loại hình gốm và hoa
văn ở gốm Sa Huỳnh với các gốm ở di chỉ văn hoá Gò
Bông-Hoa Lộc (Thanh Hoá) ở đầu thời đại đồng thau,
trước Đông Sơn.
(4) Đời sống vật chất, văn hóa
và tâm linh người Đông Sơn
Để tìm hiểu
đời sống và văn hoá Đông Sơn, ngoài các thông tin và
tư liệu từ các di chỉ khảo cổ khai quật được, các
nhà học giả Việt Nam còn dựa vào các thư tịch cổ của
Trung Quốc như Thủy Kinh Chú, Quảng Chí, Hậu Hán
thư, Giao Châu ngoại vực ký.. và Việt Nam như Lĩnh
Nam Chích quái, Việt Điện U Linh, Vân Đài Loại Ngữ
(Lê Quý Đôn). Các nguồn tư liệu qui giá khác là dân
tộc học và văn hoá dân gian Việt Nam.
Con người Đông Sơn
Các cảnh
tượng sinh hoạt trên mặt trống đồng cho ta thấy
người Đông Sơn có đời sống gắn liền với sông, nước.
Các di chỉ mộ thuyền được tìm thấy rất nhiều ở các
tỉnh ven biển như Thái Bình, Hải Dương, Nam Định,
Ninh Bình mà cách nay hơn 2 ngàn năm nằm giáp với
biển Bắc Bộ, cho thấy họ có nguồn gốc và liên hệ mật
thiết với biển. Mộ thuyền cũng đã được tìm thấy ở
nhiều nơi ở Đông Nam Á (Kalimantan, Thailand,
Philippines). Đối với cư dân gần nước, khi sống họ
dùng thuyền khi mất chiếc thuyền cũng đưa họ đi qua
thế giới bên kia. Theo Goboulew, trong buổi lễ chiêu
hồn Tiwah của người Dayak ở Borneo, khi có người
mất, họ có “thuyền vàng” đưa linh hồn người mất đến
thiên đường giữa hồ mây.
Theo ông
Trịnh Cao Tưởng (8) nghiên cứu về đình làng Việt
Nam, vị trí và địa thế lành hướng về sông nước của
đình làng và kiến trúc đình Việt Nam mang hình tượng
của một con thuyền hay cái lầu thuyền cho thấy âm
hưởng của tâm thức người xưa vẫn còn để lại ảnh
hưởng trong cuộc sống của người Việt Nam.
Về phương
diện chủng tộc, có thể biết được giống người Đông
Sơn qua các xương để lại trong các di tích. Rất
nhiều đã bị mũn nát nhưng từ các năm 70, đã tìm được
một số xương sọ ở các di tích như Núi Nấp, Quỳ Chử.
Lê Văn Cường đã so sánh sọ các cư dân hiện đại trong
vùng Đông Nam Á đến Papua, Úc và Eskimo để đưa đến
dạng chủng tộc của con người Đông Sơn. Có hai loại
hình đã được phân tích: loại hình Indonesien và loại
hình Đông Nam Á. Loại hình Indonesien thuộc ngành
Mongoloid với nhiều đặc điểm Australoid, trong khi
loại hình Đông Nam Á mang đậm yếu tố Mongoloid nằm
trong chủng tộc Nam Á của ngành Mongoloid. Các sọ
tìm ở Việt Nam trong thời đại đá giữa và đá mới
không hề thấy có sọ thuần Mogoloid, cho thấy nhóm
loại hình Indonesien cổ được hình thành ngay từ thời
đá mới bên cạnh các loại hình khác như Australoid và
các loại hình hổn chủng khác. Cư dân Đông Sơn là hậu
duệ của loại hình Indonesien do hổn chủng tăng mạnh
vào thời đại kim khí.
Trong các mộ
thuyền khai quật, các nhà khảo cổ Việt Nam đã thấy
các người Đông Sơn đều nhuộm răng đen.
Tục nhuộm
răng đen và ăn trầu là tục xưa ở các dân tục vùng
Đông Nam Á, và các đảo Thái Bình Dương. Tục này vẫn
còn phổ biến ở Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Người Đông
Sơn là các bộ tộc vùng trung du giao thoa với các bộ
tộc vùng bờ biển và đồng bằng gốc Malaỵ Hai nguồn
này là gốc Âu Việt và Lạc Việt mà sử sách và truyền
thuyết đã để lại. Mối giây liên lạc giữa vùng núi và
vùng biển đã được thể hiện ở truyền thuyết Âu Cơ,
Lạc Long Quân và Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Các mộ thuyền
Đông Sơn được tìm thấy ở dọc các vùng trũng ven
sông: từ Việt Khê, Hải Phòng, qua Hải Dương, Hưng
Yên, Hà Nội (cầu Giấy, sông Tô) đến Hà Sơn Bình. Đặc
biệt các mộ thuyền khám phá ở vùng sông Châu, Hà Nam
đều quay đầu về hướng núi Đọi. Mộ thuyền bắt nguồn
từ vùng Đông Nam Á hải đảo với truyền thống không ít
hơn 2,500 năm lịch sử. Từ vùng ven biển nó hội nhập
vào văn hoá Đông Sơn, ngược theo các sông vào các
vùng trũng hai bên tả ngạn sông Hồng. Cùng với nó là
sự hội nhập hàng ngàn từ gốc ngữ hệ
Malayo-Polynesian vào tiếng Việt. (9)
Không những
thế trong thời gian này, vùng Bắc Việt Nam cũng là
nơi các thuyền nhân từ phương xa đến. Theo Trần Quốc
Vượng (9), thì truyền thuyết An Tiêm và quả dưa đỏ
từ Tây qua thì An Tiêm là người đến nước Văn Lang
của vua Hùng là người từ xứ Ấn.
Tây Vu -
biến âm của Tây Âu - bao gồm miền Đông Anh và Tiên
Du là một bộ lạc lớn Âu Việt, là mũi nhọn đi xuống
vùng đồng bằng Lạc Việt . Người Tây Âu cũng là hậu
duệ của chủ nhân văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu là
kết hợp của người trung du và vùng Quảng Ninh gốc
hải đảo. Những cư dân Tày, Thái cổ, vừa gần gủi Nam
Á vừa gần gủi Nam Đảo mà học giả Karl P. Benedict
gọi là Kadai hay Nam Thái (austro-Thai) có lẻ là chủ
nhân chính của văn hoá Phùng Nguyên (9).
Nói tóm lại
con người Đông Sơn, mà hậu duệ là người Việt hiện
nay ở bán đảo Đông Dương, là giao chủng của các
giống dân từ bờ biển, đồng bằng và miền trung du Bắc
phần. Tiếng Việt hiện nay đã mang di sản của sự giao
thoa trên với gốc từ Mon-Khmer, Tày-Thái, Malay và
Tạng Miến.
Môi trường sống
Ta có thể
biết chút ít về thế giới động vật, thực vật và môi
trường sống ở thời đại Đong Sơn qua các di tích
đông, thực vật ở các di chỉ, mặc dầu chúng có ít và
không được bảo quản tốt. Ngoài ra còn có các hình
tượng, hình vẽ.. ở các di vật, các tư liệu, thư tịch
cổ của Trung quốc ở giai đọan muộn của văn hoá Đông
Sơn hoặc thời Hán sau này.
Đã có những
di tích động vật nuôi phổ biến: voi thuần, chó nhà,
lợn nhà và trâu bò. Các di tích này được tìm thấy
trong các di trỉ và được thể hiện trên các hình khắc
và tượng (thí dụ các hình vẽ trên đá vách núi Hoa
Sơn, Quảng Tây giáp Lạng Sơn biên giới hiện nay, cho
thấy có chó nhà).
Trong di
tích Đông Sơn ở Làng Vạc, cũng tìm thấy những hạt
thóc luá, trấu. Lúa thuộc loại hạt tròn, gần giống
lúa chim hoặc lúa nếp. Nông nghiệp là hoạt động
chính yếu của cư dân Đông Sơn. Theo Thuỷ Kinh Chú và
Nam Phương thảo mộc trạng, thì vùng Giao Chỉ, Cửu
Chân trồng nhiều nếp và dùng nếp nấu rượu. Cũng
trong “Nam phương thảo mộc trạng” của Kê Hàm (xuất
bản năm 304) về thực vật ở khu vực nhiệt đới Quảng
Tây, Quảng Đông và Bắc Việt Nam, ta có thể thấy được
môi trường thực vật như sau: cây bầu, cây chuối, cây
tre, lúa, tùng bách, dương xỉ, xoan, dâm bụt, hoa
lài, hoa súng, mía, hạt tiêu, trầm hương, nhãn,
vải, dừa, chà là, nho, khế, chanh, rau muống, rau
cải..
Qua một ít
các di tích xương răng ở các di chỉ Đông Sơn và trên
các hình tượng, ta chỉ thấy hình ảnh hạn hẹp của thế
giới động vật. Loài thú thì có hổ, voi, tê giác,
hươu sao, bò bứu, cá sấu. Ngoài ra còn có loại chim
thuộc bộ cò (cò, vạc, bồ nông..) thường đến miền Bắc
Việt nam khi di cư về phương Bắc
Theo Lĩnh
Nam Chích Quái, thì người Việt xưa thường ăn canh
cá, biết dùng cá tôm làm mắm. Theo truyền thống
người Việt ít ăn thịt trừ những dịp lễ tết, hội hè.
Như vậy ta có thể cho rằng thức ăn của người Đông
Sơn xưa chủ yếu là gạo, bột và hải sản.
Các di chỉ
trong mộ thuyền cho thấy dân cư Đông Sơn biết làm
chiếu cói, vải. Vải mặc dầu mũn nát, đã cho thấy có
nghề se sợi, dệt vải. Ngoài ra đồ gổ đều có lớp sơn,
chứng tỏ nghề sơn đã xuất hiện từ vài ba thế kỷ
trước Công nguyên.
Văn hoá và đời sống Đông Sơn
Heger cho
rằng các hình ảnh trên trống Sông Đà là ngày hội
khánh thành trống với các thuyền chở người đi dự, họ
là những khách cầm thoa để đánh trống. Ngày khánh
thành trống là một ngày hội lớn cho cả cộng đồng.
Theo Loofs-Wissoma, trống đồng là vật tượng trưng
cho quyền lực của người cầm quyền. Một thứ quyền uy
kiểu tôn giáo ở Bắc Việt Nam mà các tù trưởng ở khắp
mọi nơi, kể cả vùng Đông Nam Á, tìm đến để xin ban
cho trống đồng, để làm vua một cách hợp pháp (1).
Tuy nhiên thuyết này không đựợc tán thành vì không
những chỉ ở Việt Nam mới có đúc trống mà ở miền Nam
Trung Quốc, và các vùng lân cận ở Đông Nam Á cũng có
đúc trống. Sự có mặt khắp nơi của trống đồng là do
sự giao thoa văn hoá trong vùng (Trịnh Sinh trong
“Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam”).
Theo nhiều
nhà khảo cổ thì nhiều hình ảnh trên trống đồng phản
ảnh ngày hội mùa để gặt lúa nước và thu thập mùa
màng. Đoàn người vừa đi vừa múa tay cầm giáo, lao,
rìu hay nhạc cụ. Họ mặc trang phục lông chim, mũ
chim. Một số người mặc áo choàng lông chim mà chỉ
ngày lể hội lớn mới mang ra mặc. Người Dayak ở
Borneo vẫn còn phong tục mặc áo và mũ lông chim
trong các buổi lể. Như ta biết, trong truyền thuyết
Trọng Thủy, Mỵ Châu, cũng có đề cập đến áo choàng
lông ngỗng dành cho công chúa.
Ngày
hội mùa cũng
mang tính
chất tín ngưỡng phồn thực mong cho mùa màng tốt
tươi. Hình ảnh trên tang trống của đôi trai gái trên
mặt trống cầm chày giã vào cối phản ảnh tính chất
trên. Trên thạp đồng Đào Thịnh còn có các cặp trai
gái đang giao phối. Ngày nay, tục lệ trai gái giao
duyên ngày hội mùa mong cho mùa mang tốt tươi là vết
tích của tín ngưỡng phồn thực còn lại ngày nay trong
dân gian Việt Nam. Trên trống đồng Ngọc Lũ, ta cũng
thấy trong một ngôi nhà sàn, một đôi nam nữ ngồi với
tay và chân giao vào nhau, đang hát đối đáp trong
lúc ở góc có người đang ngồi đánh trống đồng.
Nghi lễ đâm
trâu, đâm bò cùng có phản ảnh trên trống đồng như
trên trống đồng Làng Vạc, với hình bò và các chiến
binh cầm rìu, giáo nhảy múa. Tục này vẫn còn phổ
biến ở các dân tộc Đông Nam Á và các dân tộc sống ở
Tây Nguyên Việt Nam.
Ngày hội cầu
mưa, cầu nước lên hay rút là những ngày hội mà nhiều
xã hội nông hay ngư nghiệp coi trọng để thời tiết
mưa thuận gió hoà. Nhiều trống Đông Sơn có tượng cóc
trên mặt trống gần mép trống, ngoài các vòng tròn
đồng tâm. Có khi có cóc mẹ cõng cóc con như trên
trống Hữu Chung . Hình tượng cóc thường gắn với sự
cầu mưa vì “con cóc là cậu ông Trời” như dân gian
Việt thường nói. Tiếng trống đồng cũng biểu hiện cho
tiếng sấm. Người xưa trong hội cầu mưa đánh trống để
thức tỉnh thiên nhiên mang lại mưa cho vạn vật.
Trống vì vậy có mục đích quan trọng trong đời sống
dân Đông Sơn.
Trên các
tang trống Đông Sơn như Sông Đà, Làng Vạc, Miếu
Môn.. ta có thể thấy nhiều hình thuyền diển tả cảnh
bơi chải. Tục bơi chải (bơi thuyền dưới nước và bơi
thuyền tượng trưng trên cạn) thường thấy trong hội
đua thuyền ở các làng thờ thần nước ở Bắc bộ và Bắc
Trung bộ.
Ngay cả
trong thơ văn đời Đường, cũng có bài nhắc đến tục
dùng trống trong lể nghi về thần sông. Mặc dù vào
thời Đường đã là 5 thế kỷ sau khi văn minh Đông Sơn
tàn lụi, như dư âm các dân tộc Việt vùng Hoa nam vẫn
còn vọng lại ở kinh đô Trường An. Kinh đô Trường An
có vị trí đặc biệt là nằm giữa vùng ranh giới của
hai vùng văn hóa Hoa Nam và Hoa Bắc.
Tống khách
nam quy hữu hoài
Lục thủy
noãn thanh tần
Tương đàm
vạn lý xuân
Ngõa tôn
nghinh hải khách
Đồng cổ trại
giang thần
Tỵ vũ tùng
phong ngạn
Khán vân
dương liễu tân
Trường An
nhất bôi tửu
Toà thượng
hữu quy nhân
(Hứa Hồn)
(Tiễn khách
trở về Nam - Nuớc biếc làm ấm cỏ lau xanh, Hồ Tương
vẻ xuân vạn lý, Bình rượu gạch nằm đón khách đi
biển, Trống Đồng cúng thần sông, Núp mưa bên bờ có
tùng và phong, Ngắm mây bến sông có dương liễu, Một
ly rượu ở Trường An, Trên tiệc có người về quê)
Bát phách
Man
Khổng tước
đuôi kim tuyến trường
Phạ nhân phi
khởi nhập Đinh Hương
Việt nữ sa
đầu tranh thập thúy
Tương hô quy
khứ bội tà dương
(Tôn Quang
Hiến)
(Tám điệu gõ
người Man - Chim tước đuôi kim tuyến dài lê thê, Sợ
người bay lên đậu ở Đinh Hương, Cô gái Việt đầu bãi
cát tranh nhau nhặt sỏi, Kêu nhau trở về nhà lưng
quay lại ánh tà dương)
Bồ Tát Man
từ
Mộc thiên
hoa ánh tùng từ tiểu
Việt cầm
thanh lý xuân quang hiểu
Đồng cổ dữ
Man ca
Nam nhân kỳ
trại đa
(Tôn Quang
Hiển)
(Đền bồ tát
người Man - Ngôi đền nhỏ trong bụi cây toả ánh hoa
mộc miên, Trong tiếng hót chim Việt thấy ánh sáng
ban mai mùa xuân, Trống Đồng và bài hát Man, Người
Nam cầu cúng nhiều)
Ngoài ra còn các bài thơ của Ôn
Đình Quân hay Đổ Mục (9)
Độc thần từ
Đồng cổ trại
thần lai
Mãn đình
phan cái bồi hồi
Thuỷ đối
giang phố quá phong lôi
Sở sơn như
haọ yên khai
(Ôn Đình
Quân)
(Đền thần
bến sông - Trống đồng cầu cúng thần, Đầy sân cờ lọng
bồi hồi, Gió sấm lướt trên mặt nước bến sông, Khói
mây mờ núi Sở như tranh vẽ)
Trên trống
đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, ta còn thấy hình người ở
trần, bị trói quặt tay sau lưng ngồi trên sàn
thuyền, trước mặt là những người cầm vũ khí. Có thể
đây là lể hiến tế cho thần nước, nạn nhận bị giết
rồi quẳng xác xuống sông cho thuỷ thần. Theo tài
liệu dân tộc học thì trong lể cầu nước có lể hiến tế
để cống và chiều lòng thuỷ thần. Ngay cả gần đây ở
vùng ven sông Hồng, sông Đáy và sông Mã vẫn còn tục
bắt con gái hoặc con trai ném xuống sông cống Hà Bá
trong khi nước lụt lội (1)
Trên trống
cũng có hình các loại nhà sàn: nhà sàn mái cong hình
thuyền với hai đầu vểnh trang trí hình chim và nhà
sàn mái tròn. Trong nhà sàn hình tròn có chia làm
hai gian chứa lương thực. Các vết tích của nhà sàn
như cọc, gỗ.. đã được khai quật và khám phá trong
những đợt khai quật đầu tiên của người Pháp ở Đông
Sơn. Cư dân Đông Sơn sống gần sông nước xây nhà sàn
để tránh nước lên và thú dữ.
Ngoài ra mặc
dầu chưa có chứng cớ trực tiếp từ khảo cổ học, người
Đông Sơn còn có thể có tục xâm mình, tục ăn đất, tục
uống nước bằng mũi qua tư liệu sử học (như trong Hán
thư, Lĩnh Nam chích quái), dân tộc học hay dân gian.
Các hình
tượng và cấu trúc trên mặt trống biểu hiện thêm gì?
. Ngoài các thuyết cho rằng là biểu tượng ngày hội
trống, tục bái vật (totem), nghi lễ cầu mưa... Cấu
trúc trên trống có thể cho ta biết về triết lý và
quan niệm sống của chủ nhân trống đồng.
Theo Trần
Quốc Vượng thì quan niệm sống của chủ nhân trống
đồng đã được ghi và kết tinh trong các hình tượng và
mô hình trên tang trống. Ông đã dùng kết quả nghiên
cứu liên ngành từ dân tộc học và xã hội học để cho
thấy quan niệm lưỡng hợp và lưỡng phân trong đời
sống tâm linh của người Đông Sơn.
N.I Nicolin
trong bài “Trống đồng Đông Sơn và quan niệm cây thế
giới” (4) (dịch từ nguyên tác Nga đăng trên tạp chí
Khoa học Xã hội) đã so sánh rất hay và lý thú về
truyền thuyết người Mường và biểu tượng trên trống
đồng Đông Sơn.
Dựa vào các
khám phá và nhiều ý kiến về biểu tương trên trống
đồng của các nhà khảo cổ Việt Nam gần đây (như Lê
Văn Lan) cho rằng trống đồng Đông Sơn biểu hiện mô
hình thế giới: mặt trống phía trên là thiên giới và
trần giới, phần tang trống là thuỷ quốc và mặt dưới
là âm phủ, Nicolin cho rằng có sự liên hệ mật thiết
giữa trống đồng, biểu tượng trên mặt trống và huyền
thuyết của người Mường, một dân tộc rất gần với
người Việt.
Trong tâm
linh và thần thoại người Mường về sáng tạo vũ trụ,
con người, “cây cuộc sống” biểu hiện nguyên lý về
trật tự thế giới đối nghịch với trạng thái hỗn mang
khi thế giới tạo lập. Trong truyền thuyết sử thi “Đẻ
đất đẻ nước”, một văn bản chính yếu của văn hoá
Mường
Ngày xưa sinh đời trước
Dưới
đất chưa có đất
Trên
trời chưa có trời,
Trên
trời chưa có ngôi sao đỏ đỏ
Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh
Con
nhà, con người muốn dậy
Chưa có mặt mũi
“Cây cuộc sống” xuất hiện chấm
dứt tình trạng hỗn mang
Mọc
lên một cây xanh xanh
Cây
xanh có chín mươi cành
Cành
mọc lên trời lá xanh biết cựa
Thân trên mặt đất thân cây biết rung
Cành bung xung có tiếng đàn bà con gái
Cành chọc trời biến nên cật đứa cái
Là
ông Thu Tha
Cành bung xung biến nên cật đứa con maí
Là
bà Thu Thiên
Ra
truyền: làm nên đất nên trời
Tâm linh về
“cây cuộc sống” cũng có ở các dân tộc Việt, Lào (4).
Cây là hiện thân số phận của con người trong dân tộc
người Ê Đê. Tục thờ cây cối là một tín ngưỡng xưa
của người Việt. Truyền thuyết trầu cau thể hiện tục
thờ cây (10). Theo Trần Quốc Vượng (9), thì tục thờ
mẫu Liểu Hạnh, một trong Tứ Bất Tử, thì Liễu Hạnh,
cùng hai đàn em trong Phủ là chầu Quỳnh, chầu Quế
cũng như tên chồng của Mẫu là Đào lang, đều là tên
cây, hoa. Ông cho rằng tục thờ mẫu Liễu Hạnh có liên
hệ cội nguồn với tục thờ cây cối.
Cây cũng đại
diện cho bộ tộc người Chàm trong truyền thuyết lịch
sử: bộ tộc dừa, bộ tộc cau. Cùng với cái chết của
cây crêc (cây sắt) thì đất nước cũng diệt vong. Cũng
vậy trống đồng biểu hiện “cây thế giới” cũng có thể
biến thành cây chết, với sự khám phá trong một ngôi
mộ cổ: trống bị lật ngược với mặt trên bị thủng.
Ở thế kỷ 1
sau công nguyên, Mã Viện nhà Hán sau khi chinh phục
dân tộc Lạc Việt đã thu thập và nấu hết các trống
đồng “cây sống” tượng trưng cho sức mạnh dân Việt.
Mã Viện cũng dựng lên một “cây chết” trụ đồng với
dòng chữ: “Đồng trụ triết, Giao chỉ triệt”. Theo
Minh sử thì “Trống mất thì vận người Man cũng mất”
cho thấy vị trí của trống đồng trong sự sống còn của
bộ tục chủ nhân làm trống.
Giữa mặt
trống ở trung tâm là hình “ngôi sao” mặt trời với 14
tia sáng, tượng trưng cho tục thờ Mặt trời. Sau các
vòng tròn đồng tâm trang trí, là vòng thứ 6 mô tả xã
hội loài người, các hội hè nghi lễ, các hình vẽ nhà
sàn, các hình người đánh trống, đánh cồng. Cồng sử
dụng trong ngày hội tượng trưng cho sự sinh sản
thịnh vượng. Người Mường theo tập tục mẫu hệ, chiếc
cồng biểu hiệu cho bộ ngực người phụ nữ và chiếc
cồng với những quả bí ngô liên kết với nhau biểu
tượng cho sự phồn thực.
Trên trống
đồng, ta thấy có nhiều mo-típ về chim, và người ăn
mặc dưới dạng chim. Sự phồn thực cũng có thể liên
quan đến nhóm hình trên trống Ngọc Lũ: hình một
người đàn bà và một người đàn ông dùng chày giã gạo
trong cối đá. Phía trên nhóm hình này là bầy chim
bay liệng - đó là linh hồn trẻ nhỏ chuẩn bị đầu thai
vào lòng phụ nữ. Cũng như chim Lạc của bộ tộc người
Lạc Việt, theo người Mường thì thuỷ tổ của họ được
coi là loài chim.
Thế giới
trên vòng tròn đồng tâm thứ 8 thể hiện thế giới loài
vật. Thế giới này được thể hiện bởi hai đàn chim và
hai bầy hươu (hoẵng). Trong “Đẻ đất đẻ nước”, bên
cạnh cây thế giới ta cũng thấy hoẵng và chim
Đàn hoẵng
chầu ở giữa
Lũ phượng
hoàng chầu ở trên
Lũ chim nên
chầu ở cành si, cành đa.
Trên vòng
đồng tâm thứ 10, vẽ 18 con chim bay và 18 con chim
đậu. Các con chim bay giống như những tia mặt trời
liên kết thiên giới với trần giới. Những con chim
đậu ở nước (thuỷ điểu) liên kết trần giới, thiên
giới với thuỷ quốc. Đằng sau các thuỷ điểu là những
con ếch đúc nổi bằng đồng. Các loài ếch này coi là
trung gian giữa thiên giới và trần giới với tiếng
kêu báo hiệu mưa từ trời. Trong dân gian Việt nam,
con cóc ếch vẫn còn được gọi là “cậu ông Trời”.
Như vậy trên
“cây thế giới” trống đồng, ta thấy cả những biểu
tượng thể hiện tâm linh và văn hoá của chủ nhân
trống đồng. Nó liên kết thiên giới, trần giới, xã
hội loài người và thuỷ quốc.
Hình ảnh trích từ quyển "Kinh
dịch, sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc"
của tác giả Trần Quang Bình
Tham khảo
(1) Hà Văn
Tấn chủ biên - Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Viện
khảo cổ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994
(2) Bửu Cầm
- Tương quan giữa những hình chạm trên trống đồng
Việt tộc và bài “Đồng Quân” trong Sở từ, Tập san Sử
Địa, Số 25, 1973, Saigon, trang 49-80.
(3) Phạm
Minh Huyền, Diệp Đình Hoa - Vị trí địa điểm khảo cổ
học Thiệu Dương (Thanh Hóa) trong văn minh Đông Sơn,
Khảo cổ học, 2/1981, trang 19-34.
(3b) Nguyễn
Duy Hinh - Đồ đồng vùng Đông Nam Trung Quốc, Khảo cổ
học, 2/1982, trang 29-33.
(3) Phan Đức
Mạnh - Lịch sử nghiên cứu khảo cổ học thời tiền sử
Đông Nam Bộ, Tạp chí Khoa học Xã hội, Tp. HCM, 13
(III/92), 1992, trang 47-52
(4) N.Ị
Nicolin - Trống đồng Đông Sơn và quan niệm cây thế
giới, Tạp chí Khoa học xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 12,
II/92, trang 60-68.
(5) Ha Văn
Tấn - Văn hoá Phùng Nguyên, nhận thức mới và vấn đề,
Khảo cổ học, 1/1978, trang 5-22
(6) Chử Văn
Tần - Về văn hoá Sa Huỳnh, Khảo cổ học, 1/1978,
trang 52-60.
(7) Diệp
Đình Hoa - Người Việt cổ phương Nam vào buổi bình
minh dựng nước, Khảo cổ học, 1/1978, trang 61-69.
(8) Trịnh
Cao Tưởng - Kiến trúc đình làng, Khảo cổ học,
2/1981, trang 56-64.
(9) Trần
Quốc Vượng - Theo dòng lịch sử, những vùng đất, thần
và tâm thức người Việt, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1996.
(10) Nguyễn
Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Tp
HCM, 1992.