Những bài cùng tác giả
Phần II. Dự án và môi trường thiên nhiên
Mọi dự án công nghiệp lớn đều xâm phạm môi trường thiên
nhiên. Cũng như xáo trộn văn hoá xã hội, vấn đề cũng là :
-
xâm
phạm có hậu quả tiêu cực hay tích cực,
-
nếu có
hậu quả tiêu cực thì chọn giải pháp giảm thiểu những hậu quả tiêu cực đó,
-
và với
giải pháp đó thì con người vẫn có thể chịu đựng được không.
Về môi trường thiên nhiên thì khai thác bauxite ô nhiễm
không hơn không kém gì khai thác những khoáng vật khác. Muốn biết dự án
bauxite Tây Nguyên sẽ xâm phậm môi trường ra sao thì chỉ cần đến Quảng Ninh
và nhà máy nhiệt điện với những mỏ than và Thái Nguyên với những mỏ sắt và
lò cao và tưởng tượng thay vì bụi và nước thải mầu đen thì tất cả sẽ là mầu
đỏ.
Hoàn thổ
Vấn đề đặt ra là sau khi khai thác quặng thì sẽ làm gì
với diện tích bị đào xới. Bây giờ hơn 90 % xí nghiệp mỏ có kế hoạch hoàn
thổ, nghĩa là tạo một môi trường không bắt buộc phải giống nhw xưa nhưng
phải hoà hợp với địa thế, địa chất và khí hậu địa phương.
Theo EAA (European Aluminium Association, Hiệp hội Nhôm
Âu Châu) diện tích rừng nhiệt đới suy thoái vì những lý do trình trên hình 1[i].

Hình 1 Những nguyên do rừng nhiệt đới suy thoái
Khai thác mỏ không phải là ngành tàn phá rừng nhiệt đới
nhiều nhất. Diện tích có thể bị tàn phá vì khai thác mỏ bauxite ở Tây Nguyên
không có là bao nhiêu. Mà nghĩa vụ hoàn thổ có thể là một cơ hội để cải tạo
môi trường thiên nhiên đã bị chiến tranh ô nhiễm và tàn phá và để hợp lý hoá
nông nghiệp và lâm nghiệp Tây Nguyên nhằm cải thiện đời sống nhân dân địa
phương.
Mỗi năm trên thế giới người ta đào bới 20 km2 để khai
thác 160 triệu tấn bauxite, nghĩa là 12,5 héc ta mỗi triệu tấn bauxite. Nếu
bi quan giả tỷ ở Việt Nam sẽ phải đào bới một diện tích gấp đôi trung bình
thế giới để khai thác mỗi tấn bauxite thì năm 2025 chúng ta sẽ đào bới từ
325 đến 450 héc ta để khai thác 13 đến 18 triệu tấn bauxite mỗi năm. 450 héc
ta là diện tích trung bình của ba khu công nghiệp ở Việt Nam. Sau khi khai
thác hết hai tỷ rưỡi tấn bauxite thì sẽ có 625 km2 đã bị đào bới, mười phần
trăm diện tích tỉnh Đăk Nông.
Ở vùng nhiệt đới, khí hậu nóng và ẩm, sau hai ba năm cây
cối tự nhiên mọc trở lại trên mọi diện tích đất đã bị tàn phá. Trong những
năm tháng đó đất trơ trọi bị mưa làm xói mòn. Để tránh tình trạng đó, người
ta ươm trước những cây để có thể trồng ngay sau khi diện tích đã được khai
đào. Một phương pháp rất hay là phương pháp cuốn chiếu (hình 2) :
(a) khi khai đào thì cạo lớp đất mùn cây để sang một bên,
cạo lớp đất đá không có quặng để sang một bên khác,
(b) lấp những hố khai đào bằng đất đá không có quặng đã
để dành,
(c) phủ lớp đất đá đó bằng đất mùn cây đã để dành,
(d) trồng cây đã ươm trước hay giao đất cho nông đân muốn
canh tác,
(e) nếu trồng lại rừng thì thả sinh vật muốn nuôi trong
rừng mới này,
(f) giám sát địa thế trong vài năm và điều chỉnh nếu cần.

Hình 2 Phương pháp hoàn thổ cuốn chiếu
Đất đá không có quặng sẽ bị nhiễm một chút dầu nhớt rò rỉ
từ những động cơ, không độc hại gì mấy. Đất đá được khai bới đã bị nghiền
nhỏ nên xốp hơn, sẽ giữ được nhiều nước mưa hơn, điều tiết sông ngòi tốt hơn
nên làm giảm rủi ro lụt ở miền xuôi.
Điểm quan trọng là đa dạng sinh học. Nhiều người tưởng
rằng phải giữ rừng nguyên thuỷ với tất cả các con thú sống trong đó thì mới
gọi là đa dạng. Thực tế là đất hoàn thổ không còn giống đất cư nữa và để có
lại trạng thái đa dạng sinh học thì :
-
nếu đã
đốn một số loại thảo vật thì phải thay lại bằng đủ số loại thảo vật, dù đó
là những loại thảo vật khác,
-
và phải
thả vào rừng mới đủ số loại thú đã sống trong rừng nguyên thuỷ, dù đó là
những loại thú khác thích hợp hơn với môi trường mới.
Mỏ bauxite của xí nghiệp Mineracao Rio del Norte đã áp
dụng hiệu quả phương pháp cuốn chiếu này tại khu mỏ lớn nhất thế giới ở vùng
Rio del Norte, Brazil : từ khi khởi đầu khai thác mỏ năm 1997 đến năm 2002,
xí nghiệp này đã trồng lại 17 km2 rừng để có thể đốn mỗi năm 700.000 cây đã
được ươm trước thuộc 100 loại khác nhau trên diện tích này[ii].
-
môi
trường thiên nhiên Tây Nguyên đã bị xâm phạm nặng vì chiến tranh, vì lâm
tặc, vì làm rẫy và vì đốn rừng để trồng cây công nghiệp,
-
hàng
năm, tỉnh Đăk Nông cũng vẫn mất trên dưới 300 ha rừng vì nạn đốt nương làm
rẫy, chưa kể đến hàng chục ngàn héc ta giao cho doanh nghiệp thực hiện các
dự án nông lâm nghiệp[iii].
Tây Nguyên là nơi bị không quân Mỹ tưới nhiều chất độc da
cam (dioxine hay là Agent Orange) và bị oanh tạc nặng nề nhất (hình 3). Hiện
nay chất độc da cam và bom đạn chưa nổ vẫn còn lại rất nhiều, vẫn có nhiều
trẻ em sinh ra với dị tật bẩm sinh và nhiều người khai khẩn đất hoang vẫn
thường xuyên bị tai nạn mìn nổ. Khi khai đào, đạn dược chưa nổ sẽ được phát
hiện và phá huỷ còn chất độc da cam không được loại bỏ nhưng một phần sẽ
được chôn vùi sâu hơn. Phá huỷ bom đạn chưa nổ chắc chắn sẽ tăng cường an
toàn cho nơi đã được khai bốc. Còn về chất độc da cam chôn vùi sâu hơn sẽ có
ảnh hưởng gì thì chúng tôi không biết.

Hình 3 Vùng khai thác bauxite ở Tây Nguyên (nguồn : Bộ
Lục quân hoa Kỳ))
Nếu hoàn thổ có quy hoạch đúng như tả ở trên thì khu mỏ
cũ có thể dùng lại một cách tối ưu hơn trước : trồng rừng cho công nghiệp
gỗ, cà phê, trà, cao su, cây cỏ nuôi gia súc hay những cây công nghiệp khác,
tạo ra những cảnh quan mới làm nơi nghỉ dưỡng du lịch,...
Nước thải và bùn đỏ
Nước sông Hồng đỏ vì phù sa chứa ion Fe++. Đất
ba san Tây Nguyên có mầu đỏ vì chứa ion Fe++. Mầu đỏ của bùn thải
ra theo quy trình Bayer cũng do ion Fe++ chứa trong quặng bauxite. Nước
sông Hồng không độc. Con người sống lành mạnh ở Tây Nguyên từ thời tiền sử
đến này. Mầu của bùn đỏ chỉ ấn tượng về thẩm mỹ thôi chứ không độc. Hy vọng
người Tây Nguyên sẽ quen với mầu đỏ của công nghiệp khai thác bauxite như
người Bắc Bộ quen với mầu đỏ của sông Hồng.
Nước dùng để xử lý quặng và tinh chế sản phẩm là nguồn ô
nhiễm chính của ngành khai thác mỏ. Nếu dùng nước không pha với chất hoá học
hay những chất hoá học đã được vô hiệu hoá thì đất đá chôn vùi không nguy
hại gì và chất hoá học trong nước thải sẽ có hàm lượng dưới hàm lượng tiêu
chuẩn được coi là có hậu quả không đáng kể. Một chất hoá học đã được vô hiệu
hoá khi độ pH của nước bằng 7 và nước không chứa những vật có hại cho sức
khoẻ như là vi khuẩn hay kim loại nặng. Trên nguyên tắc, nước thải của ngành
khai thác mỏ không có vi khuẩn. Nếu trong những quy trình xử lý không dùng
đến những chất hoá học thì phế liệu chỉ gồm bởi những hợp chất có sẵn trong
quặng và các hợp chất ấy đã có mặt trong môi trường thiên nhiên cả triệu năm
nay rồi mà không làm hại đến sinh thảo vật..
Cụ thể, quặng bauxite chứa một số hợp chất như trình trên
bảng 1. Ngoài hợp chất chính, oxyd nhôm (Al2O3), gọi
là alumin, còn có oxyd siliciumm (SiO2) và oxyd sắt (Fe2O3)
cộng với một số hợp chất khác như là oxyd titanium (TiO2). Để có alumin thì
phải tách ly oxyd nhôm khỏi các hợp chất khác. Những hợp chất đó có sẵn từ
khi khai thiên lập địa nên thải chúng không có ảnh hưởng tiêu cực đến môi
trường thiên nhiên mấy. Vì sự có mặt của oxyd sắt nên những phế liệu có mầu
đỏ và gọi là bùn đỏ.
Bảng 1 Cấu tạo quặng bauxite
Hợp chất |
Bauxite
karstic
(%) |
Bauxite
laterit
(%) |
Al2O3 |
48 60 |
54 61 |
SiO2 |
3 7 |
1 6 |
Fe2O3 |
15 23 |
2 10 |
TiO2 |
2 3 |
2 4 |
CaO |
1 3 |
0 4 |
H2O |
10 14 |
20 28 |
Phần trăm của quặng khô |
Vì quy trình Bayer dùng đến hydroxyd natri (NaOH, còn gọi
là xút), để hoà tan alumin nên bùn đỏ thải ra có dính hoá chất đó.
Xút là một hoá chất thông dụng dùng để làm vệ sinh nhà
cửa. Hoá chất này có phản ứng phát nhiệt mạnh với nước, làm nhiệt độ nước
tăng đến 100°C, nước bốc hơi và bắn ra ngoài rất nguy hiểm. Xút còn làm rát
và ăn mòn da. Nếu nuốt xút thì toàn bộ tiêu hoá sẽ bị gặm mòn đến bị thủng
ruột. Trên nhãn những bao bì chứa xút thường có cảnh báo về những rủi ro
này. Thải ra ngoài thiên nhiên thì xút làm tăng độ pH đe doạ đời sống sinh
vật và thảo vật trong nước.
Sau khi bùn ráo thì vẫn có nước với dung dịch hydroxyd
natri bám vào những hạt bùn. Khi mỏ bauxite Baux ở Pháp còn hoạt động, người
ta bơm bùn đỏ ra ngoài biển làm cho bùn được nước biển pha loãng. Ở
Australia, người ta chôn bùn đã được sấy khô ở một nơi hoang vằng và giả vờ
quên đi. Ở những nơi không thể xâm phậm môi trường như vậy, người ta có hai
cách : phương pháp khô và phương pháp ướt.
Theo phương pháp khô, người ta chờ cho bùn ráo rồi sấy
bùn cho đến khô thành bụi. Bụi có thể trộn với nhựa asphalt để trải đường
hay dùng làm phụ gia làm gạch bê tông. Về trải đường thì không có vấn đề gì
đặc biệt cả . Theo chúng tôi được biết thì áp dụng này chưa được khai triển
vì chưa được nghiên cứu kỹ. Ngoài ra mỗi mỏ bauxite có cấu tạo riêng và mỗi
nơi có nước dùng làm bê tông riêng nên tính bền vững theo thời gian của bê
tông phải được thử nghiệm trước khi dùng.
Có tin một đường ống sẽ chuyển quặng khai thác tại Đắc
Nông xuống cảng biển Bình Thuận để chế biến nhằm giảm thiểu ô nhiễm cho Tây
Nguyên[iv]. Tin này không đúng và có
thể bắt nguồn từ một đường ống dẫn nước biển từ bờ biển Bình Thuận lên Tây
Nguyên. Người ta dùng nước biển để giảm hàm lượng xút hãy còn bám vào những
hạt bùn đỏ. Sau đó người ta dùng lại nước đó để pha loãng hỗn hợp bauxite
xút làm cho những chất bẩn, chủ yếu gồm những oxyd, chứa trong quặng bauxite
kết tủa và có thể loại ra thành bùn đỏ bằng một quy trình lọc[v].
Sau khi lọc một lần thứ hai để tách ly hydrat nhôm, người ta không đổ nước
có xút đó ra ngoài thiên nhiên mà làm bốc hơi lượng nước đó để thu hồi và
dùng lại xút chứa trong nước. Vậy, với phương pháp này, sẽ không còn vấn đề
hạ lưu những sông Tây Nguyên thiếu nước và vấn đề nước thải ô nhiễm sông
ngòi.
Như mọi phế liệu, bùn đỏ có thể dùng lại làm nguyên liệu
có giá trị nếu bỏ công ra nghiên cứu những công dụng mới. Nhiều người không
muốn những mỏ bauxite được khai thác vì sợ ô nhiễm trầm trọng khi mưa lũ làm
tràn những hồ chứa bùn đỏ, những đê đập của hồ có thể bị vỡ hay bùn thấm vào
nguồn nước ngầm. Đây chỉ là một vấn đề thiết kế kỹ và xây dựng kiên cố.
Ngoài ra nếu có sự cố mà bùn đã được xử lý để các chất hoá học được vô hiệu
hoá hay loãng xuống dưới hàm lượng có thể chấp nhận được thì cũng không có
vấn đề gì vượt vòng kiềm chế kỹ thuật cả.
Như viết ở trên, bauxite chứa oxyd sắt Fe2O3
và oxyd titan TiO2. nên bùn đỏ cũng chứa những oxyd này. Bauxite
karstic chứa từ 15 đến 23 % oxyd sắt Fe2O3. Suy ra bùn
đỏ có thể coi là một loại quặng sắt với hàm lượng từ 25 đến 58 % Fe2O3.
Một quặng có hàm lượng trên 50 % Fe2O3có thể coi là
quặng sắt có giá trị kinh tế. Oxyd titan ở dạng rutile, một đá quý mầu đỏ
thẫm. Với hàm lượng đá quý rất nhỏ bùn đỏ có khả năng trở thành một mỏ
rutile có giá trị kinh tế. Chúng tôi đề nghị TKV nghiên cứu thêm hàm lượng
bauxite Tây Nguyên để tìm hiểu khả năng khai thác lại bùn đỏ như một khoáng
sản thô có giá trị kinh tế. Một thông tin mà chúng tôi chưa xác nhận được là
hình như cây cỏ mọc rất tốt trên đất có bùn đỏ được xử lý bằng phương pháp
này và những nơi khi xưa chứa bùn đỏ có hiệu suất rau quả rất cao.
Khí thải
Như mọi ngành công nghiệp nặng, ngành khai thác mỏ cũng
sinh ra bụi và khí chứa hoá chất. Trong chuỗi chế biến bauxite thành nhôm
thì nguồn ô nhiễm vì khí thải chính ở khâu điện phân.
Alumin chẩy lỏng ở 2.040°C. Làm lỏng alumin để điện phân
ở nhiệt độ quá cao đó thì sẽ tiêu thụ nhiều năng lượng. Để tiết kiệm năng
lượng, người ta giảm nhiệt độ chảy lỏng xuống 960°C bằng cách trộn alumin
với cryolit. Ở nhiệt độ đó cryolit (hexafluoroaluminate de trisodium,
Na3AlF6
hay 3NaF,AlF3) và những điện cực bằng carbon có thể
trộn với không khí xung quanh lò điện phân và bay ra ngoài. Người ta chụp lò
điện phân bằng một bộ lọc khí để giữ lại và tiết kiệm cryolit và carbon.
Nhưng cũng có một phần đáng kể toả ra ngoài khí quyển.
Cryolit chứa fluor. Người ta thêm một hàm lượng flour rất
nhỏ (dưới 1,2 phần triệu) vào nước uống và bột đánh răng để chống sâu răng.
Nhưng với hàm lượng đáng kể thì fluor là một chất độc chết người do bộ tiêu
hoá bị xáo trộn. Carbon ở nhiệt độ cao biến thành oxyd carbon, một khí có
hiệu ứng nhà kính.
Fluor cũng là một vật liệu đắt tiền, giữ lại fluor bay ra
khỏi lò điện phân không những giảm ô nhiễm mà còn giảm chi phí sản xuất
nhôm.
*
Những phế liệu rắn, nước thải hay khí thải của một công
nghiệp là những nguồn nguyên liệu có giá trị thương mại của những công
nghiệp khác. Công nghệ hiện đại đã có giải pháp để bảo vệ môi trường thiên
nhiên không những giảm thiểu chi phí xử lý những xâm phạm đến môi trường
thiên nhiên mà có khi còn làm những việc này sinh lợi.
Những dòng trên có vẻ rất lạc quan về những giải pháp xử
lý ô nhiễm. Thực tế không hoàn toàn đúng như vậy.
Những giải pháp đó thành
công hay không tuỳ ở cách áp dụng thế nào để thích hợp với những điệu kiện
thiên nhiên địa phương (địa dư, địa chất và khí hậu). Trước khi chép một
giải pháp đã thành công ở một nước khác chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng
những tham số kỹ thuật và điều kiện thiên nhiên ở nước đó và ở nước mình.
Như thế mới biết được giải pháp của nước đó có thể chuyển sang nước mình hay
không và nếu giải pháp có thể chuyển được thì phải thay đổi những tham số kỹ
thuật ra sao thì mới thích ứng được với điều kiện thiên nhiên ở nước ta.
Có một điểm mà hình như các nhà khoa học trong nước chưa
nghĩ tới. Đó là bùn đỏ và những phế liệu khác mà công nghiệp nhôm tỉnh Vân
Nam đổ xuống sông Hồng và sông Gianh. Chúng ta đã bố trí một bộ phận giám
sát nào chưa ? Chính phủ đã có sẵn phản ứng gì nếu có sự cố ?
Những vị lãnh đạo không ngừng tuyên bố "lắp đặt
dây chuyền chế biến [...] bằng công nghệ hiện đại, nhằm đem lại hiệu quả sản
xuất, kinh doanh cao, tiết kiệm tài nguyên, giảm ô nhiễm môi trường, đi đôi
với giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội"[vi].
Nhưng những quy định của Luật Môi trường không thể áp dụng được ở nước ta
vì :
-
không có tiêu chuẩn về toàn vẹn
môi trường thiên nhiên,
-
lãnh đạo không quan tâm đến bảo
vệ môi trường thiên nhiên, không biết làm gì vì thiếu kiến thức, tham nhũng
hay vô trách nhiệm,
-
đội ngũ cán bộ chuyên môn về
môi trường còn yếu,
-
thiếu thiết bị đo lường để kiểm
tra phát hiện những tình trạng ô nhiễm quá mức quy định.
Vì những lý do đó mà chúng tôi quan ngại về hậu quả dự án
bauxite Tây Nguyên.
Đặng Đình Cung
[ii] European
Aluminium Association : Tài-liệu đã trích-dẫn.
[v] Xem bài:"Công-nghiệp
khai-thác mỏ" đã trích-dẫn.
©
http://vietsciences.free.fr
và http://vietsciences.org
Đặng Đình Cung
|