Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
Trong
buổi bình
minh của nền
văn minh
Trung Quốc,
chưa có phát
minh văn tự,
người ta
thắt nút
dây
(kết thằng
結繩 )
để ghi nhớ
sự việc rồi
sau mới đổi
thành nét
khắc vạch
(thư khế
書契 )
trên thẻ tre
(trúc giản
竹簡 ),
xương thú
(thú cốt
獸骨 ),
mai rùa (quy
giáp
龜甲),
tiếp theo là
thời kỳ dùng
hình vẽ, ký
hiệu. Sau
cùng là chữ
viết. Từ
thời kỳ thư
khế về sau,
có lẽ đã bắt
đầu xuất
hiện một thứ
văn cụ là
tiền thân
của cây bút
lông ngày
nay. Theo
thuyết của
Léon Wieger
thì vào đời
Tần, Trình
Mạc 程邈 chế
bút bằng que
gỗ dập tưa ở
đầu. Người
ta chấm bút
vào sơn đen
rồi viết
trên vải
lụa. Về sau
bút gỗ được
cải tiến
thành bút
lông (mao
bút).
Sự phát minh
bút lông
cũng như các
văn cụ khác
như mực (mặc
墨 ),
giấy (chỉ
紙 ),
nghiên mực
(nghiễn
硯) mà
người Trung
Quốc quen
gọi là
văn phòng tứ
bảo 文房四寶
giữ
vai trò quan
trọng trong
việc truyền
bá văn hóa,
truyền thụ
tri thức,
sáng tạo
nghệ thuật.
Cây bút lông
hoàn toàn
khác hẳn
dụng cụ viết
ở các nước
khác, bởi vì
ở các nước
khác có sự
phân biệt rõ
dụng cụ viết
(bút) và
dụng cụ vẽ
(cọ) còn ở
Trung Quốc
thì không.
Bút lông
kiêm luôn
hai chức
năng viết và
vẽ. Môn thư
pháp
(calligraphy)
từ lâu vốn
được xem là
loại hình
nghệ thuật
đặc biệt.
Thư pháp
gia, tức nhà
viết chữ
đẹp, vẫn
được coi
trọng như
họa gia.
 |
Bút lông
kiêm hai
chức
năng
viết và
vẽ. Một
hoạ gia
đang vẽ
trúc. |
Nói chung,
người ta cho
rằng Mông
Điềm 蒙恬 (một
đại tướng
nhà Tần) chế
tạo bút
lông, Thái
Luân 蔡倫 (đời
Tiền Hán)
chế tạo giấy
và Hình Di
邢夷 (đời Hán)
chế tạo mực.
Trong quyển
Thiên Tự
Văn của
Chu Hưng Tự
có câu: «Điềm
bút Luân chỉ.»
恬筆倫紙 (Mông
Điềm tạo
bút, Thái
Luân tạo
giấy). Thực
ra, không
phải Mông
Điềm phát
minh bút
lông, bởi lẽ
các cổ vật
khai quật
được – mà
các nhà khảo
cổ cho rằng
có trước
thời đại
Mông Điềm
trên ngàn
năm – chứng
tỏ cổ nhân
đã biết dùng
bút. Trên
những mảnh
xương trinh
bốc (oracle
bones)
khai
quật được
tại An Dương
(Hà Nam) có
ghi những
nét chữ do
nét bút lông
chứ không
phải nét
khắc vạch.
Hơn nữa,
trong Sử
Ký của
Tư Mã Thiên
nơi tiểu
truyện của
Mông Điềm
không có đề
cập việc
phát minh
bút lông.
Trước đời
Tần, cây bút
lông gọi là
duật
聿; sau đời
Tần, chữ
duật
được thêm bộ
trúc
竹 và gọi là
bút
筆. Sự thay
đổi này có
ghi trong
quyển
Cổ Kim Chú
古今注: Thời
xưa cây bút
làm bằng gỗ,
về sau cán
bút bằng gỗ
nhưng đầu có
gắn búp
lông. Lõi
bút lông
bằng lông
nai và bọc
bên ngoài
bằng lông
dê. Đến thời
Mông Điềm,
cán gỗ được
thay bằng
cán trúc và
búp lông
được làm
bằng lông
thỏ. Quyển
Thuyết
Văn Giải Tự
có ghi:
«Người nước
Sở gọi nó là
duật,
người nước
Ngô gọi là
bất luật,
người nước
Yên gọi là
phất,
người nước
Tần gọi là
bút.»
楚謂之聿吳謂之不律燕謂之弗秦謂之筆
(Sở vị duật,
Ngô nhân vị
chi bất
luật, Yên vị
chi phất,
Tần vị chi
bút.)
Quyển Bút
Kinh 筆經
của Vương Hi
Chi 王羲之
(303-370) có
nói đến việc
các quan
chức nhà Hán
cống nạp
triều đình
lông thỏ để
làm bút. Tác
giả ngợi
khen lông
thỏ của nước
Triệu là
loại cực
phẩm. Điều
này cho thấy
việc sử dụng
bút lông thỏ
rất được ưa
chuộng và
phổ biến vào
đời Hán. Tuy
tác giả
không nói
cán bút bằng
vật liệu gì
nhưng căn cứ
trên mặt
chữ, chữ
duật được
thay bằng
chữ bút
chứng tỏ
việc lấy
trúc làm cán
bút quả là
rất phổ biến
vậy.
 |
Hộp
dụng cụ:
Bút
lông,
thỏi
mực,
nghiên,
cái gác
bút,
chén nhỏ
đựng
nước, ấn
triện,
chén sứ
đựng son
đóng dấu
(ấn nê). |
Vào khoảng
năm 1970,
các cây bút
được khai
quật tại Cam
Túc được
giám định có
vào đời Hán,
và hình dáng
giống cây
bút lông
ngày nay.
Trong Bảo
Tàng Viện
Hoàng Cung
Quốc Gia
(National
Palace
Museum) tại
Đài Loan
hiện đang
bảo tồn một
bộ sưu tập
bút lông đời
Thanh, trong
đó có một số
bút dùng
trong triều
Càn Long
(1736-1795),
lẽ đương
nhiên đó là
những cây
bút thượng
hảo hạng.
Hồ Châu là
địa phương
nổi tiếng về
chế tạo bút.
Khi chế tạo
bút, người
ta thường
dùng lông
thỏ, lông
dê, lông chó
sói hoặc kết
hợp các thứ
lông này
theo một tỉ
lệ tương
xứng để bút
có được
những hiệu
quả khác
nhau. Cho
đến nay,
lông thỏ tốt
nhất không
đâu bằng
Trung Sơn.
Do độ cứng
mềm của từng
loại lông và
do phạm vi
sử dụng của
bút, người
ta phân biệt
hai loại
chánh: nhóm
bút lông mềm
(nhuyễn hào
bút) và nhóm
bút lông
cứng (ngạnh
hào bút).
Mỗi nhóm gồm
nhiều loại
khác nhau và
có đủ cỡ đại
/ trung /
tiểu.
1. Nhóm bút
lông mềm
(nhuyễn bút
軟筆) chủ yếu
làm bằng
lông dê gồm
có:
* Đề bút
提筆 (cũng gọi
là
đẩu bút
斗筆): loại
bút cực lớn,
các thư pháp
gia thường
dùng viết
đại tự, các
họa gia ít
dùng.
* Bạch
vân bút
白雲筆: bút làm
bằng lông dê
và một ít
lông cứng.
Sự tiện dụng
của bút là
tính cương
nhu, có thể
vẽ trên thục
chỉ (giấy đã
phèn rồi)
hoặc trên
lụa. Rất
thích hợp vẽ
những hoa
mềm mại. Bút
có ba cỡ.
* Nhiễm
bút 染筆,
Đài bút
苔筆,
Trước sắc
bút
著色筆: ba loại
này làm bằng
lông dê,
dùng tô màu
hay chấm
những điểm
rêu. Bút có
ba cỡ.
* Bạch
khuê bút
白圭筆: dùng vẽ
đường nét
trên lụa
hoặc thục
chỉ. Bút có
ba cỡ.
* Bài bút
排筆: nhiều
cây bút ghép
lại như
chiếc bè,
dùng để quét
những mảng
màu lớn.
2. Nhóm bút
lông cứng
(ngạnh bút
硬筆) gồm có:
* Đề bút
提筆: bút
cực lớn bằng
lông cứng,
người ta ít
dùng.
* Lan
trúc bút
蘭竹筆: bút
bằng lông
sói hoặc
lông chồn
(lông sói
cứng hơn
lông chồn
một chút),
dùng vẽ lan,
trúc hoặc
những nét
thô lớn,
cũng có thể
dùng để vẽ
nếp nhăn y
phục. Bút có
ba cỡ.
* Thư hoạ
bút 書畫筆:
bút được
dùng nhiều
nhất vì
thích hợp
viết chữ
cũng như vẽ
đủ loại:
nhân vật,
sơn thủy,
hoa điểu.
Bút có ba
cỡ.
* Linh
mao hoạ bút
翎毛畫筆: dùng
vẽ lông
chim. Bút có
ba cỡ.
*
Điểm mai bút
點梅筆,
Diệp cân bút
葉筋筆, Lang
khuê bút
狼圭筆, v.v...:
nói chung
đây là những
bút nhỏ lông
cứng bằng
lông sói,
dùng vẽ
những đường
nét nhỏ như
điểm hoa
mai, vẽ gân
lá...
Phạm vi sử
dụng bút
cũng khác
nhau: khi
thấm màu hay
tô màu dùng
bút mềm lông
dê, khi vẽ
đường nét
dùng bút
cứng lông
sói. Đối với
giấy hay lụa
tùy theo thô
hay mịn mà
dùng bút
lông cứng
hay mềm.
Giấy vẽ có
phèn rồi gọi
là thục
chỉ
(giấy chín),
giấy vẽ chưa
phèn gọi là
sinh chỉ
(giấy sống.)
Khi vẽ sinh
chỉ dùng bút
lông cứng
khi vẽ thục
chỉ dùng bút
lông mềm.
Đối với lụa,
vì trước khi
vẽ cần phải
phèn qua nên
theo nguyên
tắc phải
dùng bút
lông mềm
hoặc bút làm
bằng cả hai
thứ lông
cứng và mềm
gọi là
kiêm hào bút.
Bút dùng lâu
ngày trở nên
tưa cùn gọi
là thoái
bút 退筆
mà ta không
nên vất bỏ
vì nó rất
tuyệt diệu
khi viết chữ
thảo. Giới
hội họa có
câu: «Họa
gia vô khí
bút.»
畫家無棄筆(Người
họa sĩ không
bao giờ ném
bỏ bút cũ).
Một họa gia
đời Thanh là
Trách Lãng
迮朗 trong
quyển Họa
Sự Vi Ngôn
畫事微言 có nói:
«Bút lông
cứng để vẽ
đường nét,
bút lông mềm
để tô màu,
bút mới để
vẽ những nét
công phu tỉ
mỉ (công
bút), bút cũ
để mô tả
tượng trưng
theo lối tả
ý (ý bút),
bút lông
cứng để vẽ
chi tiết,
bút lông mềm
để quét màu,
bút lông
cứng đầu
nhọn để vẽ
gân lá, bút
cũ lông cứng
để chấm
những điểm
rêu, bút lớn
lông mềm để
quét mực
loãng, bút
cũ lông mềm
để quét
những mảng
màu nhạt
mỏng.»
鉤勒用硬筆著色用軟筆工細用新筆寫意用退筆界畫用硬筆畫染用軟筆鉤筋用硬尖筆點苔用硬退筆潑墨用大軟筆淡色用軟退筆
(Câu lặc
dụng ngạnh
bút, trứ sắc
dụng nhuyễn
bút, công tế
dụng tân
bút, tả ý
dụng thoái
bút, giới
họa dụng
ngạnh bút,
họa nhiễm
dụng nhuyễn
bút, câu cân
dụng ngạnh
tiêm bút,
điểm đài
dụng ngạnh
thoái bút,
bát mặc dụng
đại nhuyễn
bút, đạm sắc
dụng nhuyễn
thoái bút).
Kỹ thuật
cầm bút
cũng thay
đổi khác
nhau:

* Nếu chỉ
viết chữ
hoặc tỉa
những đường
nét nhỏ,
mảnh, tỉ mỉ,
cầm bút như
sau: quản
bút được giữ
ở hai vị
trí: a/
giữa đốt thứ
nhất ngón
trỏ và đầu
ngón cái,
b/ giữa
hai đốt đầu
của ngón
giữa và áp
út. (Xem
hình 1)
* Nếu vị trí
a cố
định, thì vị
trí b
có thể di
động tới lui
với sự điều
khiển của
ngón giữa và
ngón áp út.
(Xem hình 2
và 3)
* Nếu vị trí
a di
động theo sự
điều khiển
của cánh
tay, thì vị
trí b
có hai
chuyển động:
một là của
riêng b,
một là theo
di động của
a.
Như vậy ngọn
bút di
chuyển trên
mặt giấy lụa
vô cùng linh
hoạt. Nếu
đầu ngọn bút
di động trên
một diện
tích tương
đối nhỏ, ta
vận động cổ
tay. Nếu
trên diện
tích lớn, ta
vận động cả
cánh tay.
Nếu chỉ để
vẽ, cầm bút
như sau: bút
được giữ
giữa đầu
ngón cái và
các đầu ngón
còn lại. Lối
cầm bút này
rất tiện lợi
vì đầu bút
có thể di
động theo
mọi chiều
hướng theo
sự điều
khiển của
ngón tay, cổ
tay và cánh
tay, sự ảo
diệu của lối
cầm bút này
là nó có thể
biến thể như
hình sau:
Lối cầm bút
như vậy gần
giống lối
cầm thứ nhất
nhưng hiệu
quả cao hơn
vì bút có
thể đứng,
nghiêng,
nằm. Đặc
biệt ở thế
nằm, búp
lông có hai
chuyển động:
hoặc theo
chiều dọc
thân bút (a)
hoặc tạt hai
bên (b).
(Hình 4) Nếu
lông bút hơi
khô mực hay
khô màu, nó
thể hiện
được những
vết rạn nứt
như sớ gỗ,
sớ đá, rất
thích hợp để
vẽ thân cây,
núi và đá.
Ngoài ra,
vị trí bàn
tay trên cán
bút cũng tạo
hiệu quả
khác nhau
vì bàn tay
gần búp lông
và bàn tay ở
cuối cán bút
tạo những
lực mạnh yếu
khác nhau.


Trong cách
vận dụng
bút, người
ta thường
dùng những
thuật ngữ
như: Ức
抑 (nhấn
xuống),
dương
揚 (nâng
lên),
đốn
頓 (dè dặt),
tỏa
挫 (hạ
xuống),
trì
遲 (chậm
trễ),
tốc
速 (nhanh),
hoãn
緩 (thong
thả),
khẩn
緊 (gấp gáp),
khinh
輕 (nhẹ tay),
trọng
重 (nặng,
mạnh tay),
lập
立 (bút đứng
thẳng),
ngọa
臥 (bút nằm),
sát
擦 (chà
quét),
điểm
點 (chấm
bút),
nhiễm
染 (tô
màu)...
Những hiệu
quả tạo ra
như:
Thoán 皴
(tạo vết răn
nứt),
can
干 (khô),
thấp
濕 (ướt át),
nồng
濃 (đậm đà),
đạm
淡 (nhạt),
nhung
茸 (mơn mởn
như chồi
non),
trám
(chấm giọt),
thực
實 (thực),
hư
虛 (hư ảo),
tiêm
(nhọn),
thốc
禿 (trơ
trụi),
tàng
藏 (ẩn kín),
lộ
露 (phơi
bày),
thô
粗 (thô),
tế
細 (nhỏ,
mảnh mai),
nhuyễn
軟 (mềm),
ngạnh
硬 (cứng),
âm
陰 (tối),
dương
陽 (sáng),
hướng
向 (tới),
bối
背 (sau
lưng),
hậu
厚 (dày),
bạc
薄 (mỏng)...
Một khái
niệm khác
khi chấp bút
đó là
khí
bút.
Tô Đông Pha,
một nhà thi
họa và chính
khách đời
Tống, có lần
tán thưởng
thư pháp của
Nhược Quỳ:
«Chữ viết
tiêu sơ như
mưa bay,
phát tán một
cách tự
nhiên mà
không chút
nào cẩu
thả.» Rõ
ràng chỉ khi
nào người
nghệ sĩ hoàn
toàn đắm
mình trong
sự sáng tạo
nghệ thuật
thì mới đạt
được hiệu
quả này. Có
thể gọi đây
là hiện
tượng cảm
ứng. Người
viết cảm
được sự biến
động của tự
dạng trong
tâm. Khi sự
cảm nhận này
hội đủ rồi
thì người
nghệ sĩ cầm
bút viết
ngay một
cách đúng
mực và thông
suốt không
đứt đoạn.
Thần khí của
chữ phóng
phát từ tâm
tư ứng hiện
lên mặt
giấy. Nét
bút trở nên
sống động,
linh hoạt và
có thần khí.
Ta có thể
lấy ẩn dụ
ngón tay chỉ
trăng: Người
sơ cơ phải
lệ thuộc vào
văn cụ, dẫu
có công phu,
nét bút có
thể đẹp
nhưng không
có thần vì
thần khí chỉ
trụ ở ngón
tay. Còn đối
với người
lão luyện,
ngọn bút như
một bộ phận
thân thể nối
liền với bàn
tay. Trong
con mắt
người nghệ
sĩ bậc thầy,
không có
«ngón tay»,
chỉ có «mặt
trăng» mà
thôi. Nghĩa
là không
ngọn bút,
chỉ có cái
thần khí của
chữ hiển
hiện trên
giấy, lụa.
Đại sư D.T.
Suzuki có đề
cập vấn đề
này ở bài
luận về Zen
và hội họa,
trong quyển
Zen
Buddhism:
«Một nét khu
biệt khác
của mặc họa
(Sumiye)
chính là sự
nỗ lực chụp
bắt cái Thần
đang lúc nó
vận động.
Vạn vật luôn
vận hành,
không có gì
tĩnh lặng
trong bản
chất của nó.
Khi bạn nghĩ
rằng bạn
đang giữ yên
được nó thì
nó trượt
khỏi tay bạn
rồi. Bởi vì
trong cái
khoảnh khắc
mà bạn giữ
nó, nó không
còn sự sống
nữa. Nó đã
chết. Nhưng
mặc họa cố
gắng bắt giữ
sự vật cùng
với sức sống
của nó, một
điều cơ hồ
không thể
đạt được.
Vâng, sự nỗ
lực của
người nghệ
sĩ muốn thể
hiện một vật
thể sống
động trên
trang giấy
dường như
bất khả thi,
nhưng người
nghệ sĩ có
thể đạt được
ý muốn này ở
một giới hạn
nào đó nếu
mỗi nét bút
đều phóng
phát trực
tiếp từ cái
thần khí nội
tại, không
bị ngoại
giới và tạp
niệm ngăn
trở. Trong
trường hợp
này ngọn bút
chính là
cánh tay
vươn dài ra.
Hơn thế nữa,
nó chính là
Thần khí của
nghệ, sĩ,
thần khí này
ứng hiện
trong từng
nét bút trên
mặt giấy.
Khi hoàn
tất, bức mặc
họa chính là
một thực thể
sống, hoàn
bị và không
hề là bản
sao của bất
kỳ sự vật
nào.»

Cây bút
lông, một
nét văn hóa
truyền thống
tiêu biểu
của người
Trung Quốc,
suốt mấy
ngàn năm
phát triển
từ một que
gỗ thô sơ
thành một
cây bút lông
xinh xắn ảo
dụng, đã
chứng tỏ óc
thông minh
sáng tạo của
dân tộc này.
Các nước
đồng văn hóa
với Trung
Quốc như
Việt Nam,
Nhật, Triều
Tiên cũng
từng sử dụng
bút lông.
Nhưng trong
thời đại tân
tiến hiện
nay, có
nhiều loại
bút khác
tiện lợi hơn
đã thay thế
bút lông.
Cây bút lông
chỉ còn đắc
dụng trong
lĩnh vực
nghệ thuật
như thư pháp
và hội họa
mà thôi.
●
