Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
Tranh Thẩm Chu
(đời Minh)
Hội họa và viết chữ (thư pháp) có nguồn gốc
gần gũi nhau đến nỗi khó mà tách chúng ra được. Trong số những
mảnh xương trinh bốc 貞卜 (cũng gọi là giáp cốt 甲骨) thuộc
đời Thương (khoảng 1766-1122 tcn) có một mai rùa mà trên đó ghi
chép chu kỳ ngày tháng bói toán và vẽ hình một con voi lớn với
một con voi nhỏ hơn nằm trong bụng voi lớn, tượng trưng cho sự
cưu mang. Điều này cho thấy hội họa và viết chữ đã xuất hiện từ
thời cổ xưa. Đồng thời nó cũng chứng minh mối quan hệ mật thiết
từ thuở đầu của hội họa và viết chữ. Do đó rất nhiều người đã đề
ra thuyết «Thư hoạ đồng nguyên» 書畫同源 (thư pháp và hội hoạ có
chung một nguồn) trong lịch sử mỹ thuật Trung Quốc.
|
Tranh chân
dung đời Tống |
Tư liệu cổ nhất ghi chép về hội họa có lẽ là
Thư Kinh 書經, trong đó phần Thương Thư (sách chép
về đời Thương) có đề cập việc vua Vũ Đinh (tức Cao Tông,
1324-1266 tcn) nằm mộng thấy Thượng Đế ban cho một vị tài đức
giúp nước. Sau đó vua hạ lệnh cho thợ họa lại chân dung người mà
ngài mộng thấy, rồi dùng bức chân dung đó mà tìm kiếm vị hiền
tài ấy. Cuối cùng vua tìm được ông Phó Duyệt, cùng đàm đạo tương
đắc, vua bèn phong cho ông Duyệt làm tể tướng. Thiên Duyệt
Mệnh thượng của Thương Thư chép: «Mộng Đế
lại dư lương bật, kỳ đại dư ngôn. Nãi thẩm quyết tượng, tỉ dĩ
hình bàng cầu vu thiên hạ. Duyệt trúc Phó Nham chi dã, duy tiếu,
Viên lập tác tướng.» 夢帝賚予良弼其代予言乃審厥象俾以形旁求于天下說築傅岩之野惟肖爰立作相("Ta
chiêm bao thấy Thượng Đế cho ta một bậc hiền lương giúp đỡ,
người ấy thay ta mà phát ngôn!" Vua bèn sai vẽ đúng hình
người trong mộng để tìm khắp thiên hạ. Ông Duyệt ở cánh đồng Phó
Nham là người duy nhất giống hệt [tranh vẽ]. Vua bèn cất ông
Duyệt làm Tể tướng.) Giai đoạn này xảy ra cách nay ít nhất 3000
năm, có thể gọi là cái mốc cho hội họa Trung Quốc.
Vào đời
Chu (1122-211), nơi Minh Đường – nơi cử hành đại lễ của đế vương
và chư hầu thời cổ đại – có treo tranh chân dung của Nghiêu,
Thuấn, Kiệt, Trụ. Mỗi vua với vẻ mặt thánh thiện hoặc hung ác,
tượng trưng đầy cảnh giác về sự hưng vong của triều đại. Rõ ràng
qua những bức chân dung này người xem có thể rút ra bài học về
nhân nghĩa và phép trị nước.
Một bức
tranh lụa được các nhà khảo cổ khai quật tại Trường Sa thuộc
tỉnh Hồ Nam mà họ xác định vào thời Chiến
Quốc (481-221), miêu tả một nữ nhân
được rồng phượng vây quanh. Bởi bức tranh được tìm thấy trong
ngôi mộ nên người ta cho rằng nó phục vụ cho mục đích tôn giáo.
|
Tranh của
Đường Dần (đời Minh) |
Ngoài ra
còn có những bức chân dung các vị chính khách tại Kỳ Lân Các
(nơi trưng bày tranh vẽ các bậc công thần nhà Hán, 206 tcn-220
cn) và 28 bức chân dung công thần tại Vân Đài (đài cao vút tận
mây) thời Hán Minh Đế (58-76) để truy niệm 28 tiên
hiền. Tiếc thay các bức tranh này cũng như công trình
kiến trúc đã bị hủy hoại theo thời gian. Một số tranh chân dung
đời Hán hiện trưng bày ở Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Boston.
Hẳn chúng
ta còn nhớ giai thoại về Hán Nguyên Đế (48-33) và nàng Vương
Chiêu Quân. Tương truyền vua có lắm cung phi đến nỗi không biết
hết mặt họ. Vua bèn giao Mao Diên Thọ họa lại chân dung các
nàng. Các cung phi mỹ nữ đưa nhau hối lộ Mao để được họa thật
đẹp. Chỉ có một người thì không, đó là nàng cung nữ đẹp nhất bọn
tên Vương Chiêu Quân. Chỉ vì căn cứ theo tấm họa xấu xí về nàng
mà sau này vua ra lệnh đem nàng ban cho một thủ lĩnh rợ Hồ. Ngay
lúc nàng Vương rời khỏi cung điện để tiến cống rợ Hồ, vua trông
thấy mặt nàng thì bàng hoàng hoảng hốt và tự trách mình quá sơ
suất. Nhưng lệnh thi hành rồi rút lại không kịp nữa. Mao Diên
Thọ bị trừng phạt đến chết – có lẽ vì dám để sổng mất «quốc bảo»
của vua hơn là vì tội nhận hối lộ. Còn nàng Vương một ít lâu sau
cũng qua đời nơi thảo nguyên vì quá xót thân tủi phận. Câu
chuyện lâm li này ít ra cũng cho thấy trình độ họa chân dung
thời đó cũng là khá cao. Hiện nay tại British Museum có bức
«Huấn luyện tài nhân» (dạy các cô gái biết ca múa để đưa vào
cung) của Cố Khải Chi, đời Tấn. Đây là bức tranh về nhân vật
tiêu biểu. Một số người cho rằng đây không phải là chân bút họ
Cố, nếu sao chép được như vậy cũng là quá trung thực rồi. Bức
tranh này cho thấy sự thành tựu của loại tranh nhân vật vào thế
kỷ IV cn.
Một ngôi
thạch mộ đang trưng bày tại Nelson Gallery, Kansas city, được
xác định vào thời Lục Triều (525 cn) có chạm nổi các gương hiếu
tử như Thái Thuận, Đồng Vinh, bên hông mộ có hình núi non cây
cối dùng trang trí. Đây cũng có lẽ là đầu mối của lối vẽ phong
cảnh về sau.
Tranh đời
Tùy (581-618) đa số mang chủ đề Phật giáo phản ảnh tinh thần
sùng thượng tôn giáo. Vào đời Đường (618-907) nổi tiếng nhất là
Ngô Đạo Tử và các môn đệ của ông. Mặc dù ngày nay người ta không
còn tác phẩm nào của Ngô Đạo Tử, nhưng các bức tranh khai quật ở
lăng mộ Vinh Thái Công Chủ cũng biểu lộ sự thành tựu tốt đẹp về
tranh nhân vật đời Đường. Tương truyền vào đầu nhà Đường, Ngô
Đạo Tử và Lý Tư Huấn mỗi người một bức sơn thủy trên vách Đại
Đồng Điện. Tuy bút pháp hai nhà khác nhau nhưng cả hai tác phẩm
đều được tán dương là thần bút. Điều này cho thấy sự tiến triển
về tranh phong cảnh từ đời Lục Triều cho tới đời Đường.
Theo lời
nhà phê bình nghệ thuật Trương Ngạn Viễn (đời Đường) thì trước
đời Đường tranh nhân vật rất quan trọng vì mục đích thực tiễn
đến chính trị và tôn giáo của nó. Tranh họa nhằm giáo hóa và đề
cao nhân luân nữa. Tiếc thay phần lớn tranh này không còn nữa.
Những tranh mà các nhà khảo cổ khai quật được dù sao cũng cho ta
nét đại cương về hội họa thuở ấy.
Tranh hoa
điểu nổi bật sau tranh phong cảnh. Bắt đầu là Biên Loan (đời
Đường) tiếp theo là Từ Hi và Hoàng Thuyên (Thời Ngũ Đại). Tranh
hoa điểu thịnh đạt nhất vào thế kỷ X và XI. Nói đến sự thịnh đạt
của tranh hoa điểu và sơn thủy không thể không đề cập tới hội
họa thời Ngũ Đại (907-960) và đời Bắc Tống Nam Tống (960-1279).
Thời này phổ biến loại tranh cuộn (tức thủ quyển
手卷 : handscrolls và hanging scrolls) hơn là bích họa
壁畫 (wall paintings) vì dễ bảo quản
hơn. Thời Ngũ Đại và đời Bắc Tống là thời vàng son của tranh sơn
thủy Trung Quốc. Các tay cự phách Thời Ngũ Đại có Kinh Hạo, Quan
Đồng, Đổng Nguyên, Cự Nhiên và đời Bắc Tống có Lý Công Lân,
Quách Hi, Phạm Khoan, và Mễ Phế. Đời Bắc Tống chuyên về sơn thủy
là Yến Văn Quý, Hứa Đạo Ninh, còn chuyên về hoa điểu có Hoàng Cư
Thái, Thôi Bạch, nhất là vua Tống Huy Tông tức Triệu Cát
(1101-1125).
Từ đời
Bắc Tống đến Nam Tống tranh hoa điểu và nhân vật đã xuống dốc
nhưng tranh sơn thủy thì cực thịnh. Nối liền hai giai đoạn này
là Lý Đường, một thủ lĩnh họa phái Nam Tống. Môn đệ của họ Lý
nổi tiếng nhất là «Tứ đại họa gia» gồm có Lưu Tùng Niên, Lý
Tung, Mã Viễn, Hạ Khuê. Nổi tiếng về mặc trúc có Văn Đồng, Tô
Thức, về mặc mai có Thôi Bạch, về mặc lan có Trịnh Tư Hữu, Triệu
Mạnh Kiên, về mặc cúc có Triệu Xương, Khâu Khánh Dư, Hoàng Cư
Bảo. Đời Nam Tống, Mã Lân nổi tiếng về hoa điểu không kém gì bố
là Mã Viễn. Đặc biệt thời này có Lương Khải và Mục Khê nổi tiếng
về tranh Thiền. Họa pháp của hai ông ảnh hưởng rất nhiều đến hội
họa Nhật Bản. Chính vào đời Nam Tống (thế kỷ XII) Thiền từ Trung
Quốc du nhập vào Nhật và tư tưởng Thiền cũng từ đó mà bàng bạc
khắp nền hội họa Nhật.
Tranh Ngô Xương
Thạc (cận đại)
Từ Nam
Tống đến đời Nguyên (1279-1368) có các đại họa gia như Triệu
Mạnh Phủ, Cao Khắc Cung. Tranh họ Cao phảng phất bút pháp hai bố
con Mễ Phế và Mễ Hữu Nhân.
Đời
Nguyên các tranh sơn thủy thường là mặc họa 墨畫
(tranh vẽ toàn bằng mực đen). «Tứ đại họa gia đời Nguyên»
có Hoàng Công Vọng (thủ lĩnh), Ngô Trần, Nghê Tán và Vương
Mông. Ngoài ra còn có các cao thủ khác như Cao Phòng Sơn, Lý Tức
Trai, Kha Cửu Tư, Nghê Vân Lâm, Ngô Trọng Khuê, Cố Định Chi,
Quản Trọng Cơ, Phương Nhai. Đặc biệt, Lý Tức Trai nổi tiếng về
mặc trúc và bí kíp «Trúc Phổ Tường Lục» nghiên cứu đời sống sinh
thái cây trúc và họa pháp cây trúc, vẫn còn truyền tụng đến nay.
Kha Cửu Tư cũng biên soạn quyển «Họa Trúc Phổ» nghiên cứu họa
pháp cây trúc đời Tống. Như vậy kể từ đời Tống, Nguyên tới Minh
các danh thủ về Trúc có Văn Đồng, Tô Thức, Lý Tức Trai, Phương
Nhai, Kha Cửu Tư, Vương Phất, và Hạ Xưởng. Vương Phất là khuôn
mặt buổi giao thời Nguyên Minh. Trường hợp ông giống với Lý
Đường (giữa Bắc Tống - Nam Tống) và Triệu Mạnh Phủ (giữa Nam
Tống - Nguyên). Địa vị Vương Phất rất
quan trọng. Môn đệ của ông nhờ đó mà đạt mức tinh thâm như Thẩm
Chu và Văn Trưng Minh nổi tiếng về sơn thủy, Hạ Xưởng nổi tiếng
về mặt trúc. Hạ Xưởng danh tiếng lẫy lừng: «Hạ hương nhất cá
trúc, Tây Lương thập đình kim» (Một cành trúc quê ông Hạ trị giá
mười nén vàng ở Tây Lương.) Ngoài ra còn có Vương Miện và Trần
Hiến Chương nổi tiếng về mặc mai. Do đó mà người ta truyền nhau
câu: «Vương mai, Hạ trúc.» (mai của Vương Miện vẽ, trúc của Hạ
Xưởng vẽ).
|
Tranh gà của Từ Bi Hồng (1895-1953) |
Đời Minh có «Tứ đại họa gia»
là Thẩm Chu, Văn Trưng Minh,
Cừu Anh
và Đường Dần. Thẩm Chu là thủ lĩnh họa phái Ngô Phái, địa vị rất
quan trọng. Văn Trưng Minh và những người trong phái chịu ảnh
hưởng họ Thẩm rất nhiều. Cừu Anh và Đường Dần nổi tiếng về tranh
nhân vật và sơn thủy. Ngoài Ngô Phái ra còn có Tống Khắc, Lỗ Đắc
Chi, Đái Tiến. Đái Tiến là thủ lĩnh họa phái Chiết Phái (cùng
quê ở Chiết Giang). Họ Đái chịu ảnh hưởng Mã Viễn và Hạ Khuê.
Trong Chiết Phái còn có Mã Thức cũng là tay cự phách. Vào đời
Minh, Biên Cảnh Chiêu trên nổi tiếng về hoa điểu, ông chịu ảnh
hưởng họa pháp đời Tống. Giữa đời Minh họa pháp hoa điểu tách
riêng hai hướng: một lối vẽ đa sắc tỉ mỉ tinh tế và một lối vẽ
đơn sắc mạnh bạo. Tiêu biểu cho hai lối vẽ này là Lâm Lương và
Lã Ký. Nổi tiếng về tranh nhân vật có Ngô Vĩ và Quách Hủ. Cuối
đời Minh có Trần Hồng Thụ chủ trương tránh sự dung tục trong
tranh mà phải quay về với sự đơn sơ thuở xưa. Cho nên tranh ông
tao nhã khác thường. Ngoài ra còn có Đổng Kỳ Xương chủ trương
thi họa tương hợp, rất được nhiều người tán thưởng. Cũng vào
cuối đời Minh, Từ Vị rất nổi tiếng với bút pháp độc đáo dị kỳ,
ảnh hưởng rất nhiều đến hai danh thủ sau này là Thạch Đào và Bát
Đại Sơn Nhân.
Khuynh hướng chung hội họa đời Thanh
(1644-1912) là khôi phục những họa pháp các đời trước. Nổi tiếng
có Ngô Lịch, Uấn Thọ Bình và nhóm «Tứ Vương» gồm Vương Thời Mẫn,
Vương Giám, Vương Nguyên Kỳ, Vương Huy. Vương Huy nổi tiếng nhất
nhóm. Ngô Lịch chịu ảnh hưởng họa pháp đời Tống-Nguyên, Uấn Thọ
Bình nổi tiếng ngang với Vương Huy về tranh sơn thủy. Bát Đại
Sơn Nhân là khuôn mặt độc đáo về nhân cách cũng như họa pháp.
Ông và Thạch Đào có thể đứng riêng thành một tân họa phái. Đời
Thanh còn có Trịnh Tiếp (lan trúc), và Lý Phương Ưng, Kim Nông,
Uông Sĩ Thận (mặc mai).
Họa gia cận đại có Triệu Huy Thúc, Ngô Xương
Thạc, Tề Bạch Thạch, Từ Bi Hồng, Trần Sư Tăng, Lâm Cầm Nam, Mai
Lan Phương...
Trên đây là đôi nét về nguồn gốc và tiến
trình của hội họa Trung Quốc. Hiện nay trên thế giới có rất
nhiều cộng đồng người Hoa ngoài Hoa lục, Đài Loan, và Hương
Cảng. Con đường nghệ thuật truyền thống này đã đến chỗ phân kỳ
mà mỗi ngã rẽ đều rất đa dạng phong phú, do bối cảnh xã hội
chính trị văn hóa khác nhau và nhất là do đời sống vật chất càng
ngày càng văn minh hơn. Vì thế có thể quan niệm thưởng ngoạn
cũng có ít nhiều dị biệt. Các họa gia hoặc là duy trì phong cách
cổ điển, hoặc là cách tân nó do ảnh hưởng lối họa Tây phương.
Cho nên hiện tại và tương lai của môn quốc họa này hết sức thú
vị và hứa hẹn nhiều bất ngờ mà ta khó có thể luận bàn được.
●
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
|