Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
|
Tranh
của
Triệu
Cát (tức
vua Tống
Huy
Tông) |
Tranh hoa
điểu ngư
trùng
(hoa cỏ,
chim chóc,
cá, côn
trùng) của
Trung Quốc
có nguồn gốc
lâu đời. Kể
từ đời Đường
và đời Tống
trở về sau,
loại tranh
này kết hợp
giữa hội họa
và văn học.
Ở Âu Châu,
từ thời Phục
Hưng cho tới
nay loại
tranh đề tài
bướm, thảo
trùng, hoa
cỏ không
phải là
hiếm. Nhưng
những đề tài
này trong
lối họa sơn
dầu Tây
phương không
hàm ý nghĩa
tượng trưng
văn học. Đó
là nét đặc
trưng của
hội họa
truyền thống
Trung Quốc,
khác biệt
với lối họa
sơn dầu Tây
phương. Đã
bao triều
đại qua, các
họa gia cũng
rất thường
là thi nhân,
văn sĩ, dùng
hội họa để
tải đi những
thi tứ của
mình. Khuynh
hướng này
đặc biệt
hiện rõ
trong loại
tranh hoa
điểu.
Văn nhân
Trung Quốc
thường gán
cho từng
loại hoa một
đức tính,
một ý nghĩa
tượng trưng
văn học nào
đó, và các
họa gia đã
tiếp thu
toàn bộ
những quan
niệm này.
Chẳng hạn
Chu Đôn Di
周惇頤, một đại
nho đời
Tống, từng
nói: «Trong
các loài
hoa, cúc là
kẻ ẩn dật,
mẫu đơn là
kẻ phú quý
và sen là
bậc quân tử
vậy.»
(Cúc, hoa
chi ẩn dật
giả dã; mẫu
đơn, hoa chi
phú quý giả
dã; liên,
hoa chi quân
tử giả dã.
菊花之隱逸者也牡丹花之富貴者也蓮花之君子者也).
|
Tranh Tề
Bạch
Thạch
(1863-1957) |
Quan niệm
cúc là kẻ ẩn
dật có lẽ
phát xuất từ
Đào Tiềm
陶潛
tức Đào Uyên
Minh 陶淵明 đời
Tấn, một thi
sĩ vĩ đại,
chán cảnh
làm quan
luồn cúi,
treo áo từ
quan, hưởng
thú điền
viên, vui
cảnh nghèo,
thích uống
rượu chơi
cúc và nhàn
du. Người
đời khen ông
là bậc ẩn
dật cao
khiết. Trong
bài Ẩm
Tửu 飲酒
của ông có
nhắc đến hoa
cúc: «Hái
cúc dưới
giậu đông,
thơ thới
nhìn núi
Nam.» (Thái
cúc đông ly
hạ, du nhiên
kiến Nam
Sơn.
採菊東籬下悠然見南山.)
Người ẩn sĩ
này uống
rượu ngắm
cúc để quên
cảnh náo
nhiệt, trầm
luân trong
đời, cho nên
hoa cúc cũng
là biểu
tượng của kẻ
ẩn dật lánh
đời vậy.
Người giàu
có ưa chuộng
màu sắc lộng
lẫy rực rỡ
của mẫu đơn.
Mẫu đơn là
loài hoa quý
hiếm, chỉ có
bậc quyền
quý đài các
mới chơi hoa
này. Cho nên
mẫu đơn là
biểu tượng
của sự giàu
sang phú
quý. Hoa sen
là cốt cách
của bậc quân
tử. Đẹp và
ngát hương,
gần bùn mà
chẳng tanh
bùn. Dù cuộc
đời ô trọc,
nhân tình ấm
lạnh, bậc
quân tử vẫn
giữ được
tiết tháo
của mình,
thơm tho và
tinh khiết
như đóa sen
kia.
Hoa kết hợp
với điểu,
thảo trùng,
cá, đá và
các khí vật
khác cũng
tăng thêm
thi ý cho
tranh, tạo
cho tranh có
chủ đề mới.
Thường đó là
lời chúc
nguyện cát
tường. Chẳng
hạn: «Tùng
hạc diên
niên»
松鶴延年 (tùng
và hạc sống
lâu) là chủ
đề tranh
dùng chúc
thọ, bởi vì
theo truyền
thuyết,
người Trung
Quốc tin
rằng hạc
sống đến
ngàn năm (Hạc
thọ thiên
tuế
鶴壽千歲). Người
Trung Quốc
có thói quen
tặng tranh
tùng hạc
mừng lễ
thượng thọ
của các bậc
trưởng
thượng.
Thi nhân cho
rằng chim én
là loài chim
nhỏ có cảm
tình, mùa
thu và mùa
đông bay đi
tìm cái ấm
áp của miền
nhiệt đới và
mùa xuân
quay về tổ
cũ. «Xuân
phong yến hỉ»
春風燕喜 (chim
yến vui
trong gió
xuân) mô tả
một đôi én
về tổ trong
cành liễu
xanh phất
phơ hay cành
đào hồng
thắm. Một
bức tranh
với đôi én
hoặc một bức
tranh với
cặp hồng
nhạn 鴻雁
hay đôi uyên
ương bơi lội
trong ao sen
chính là
biểu tượng
tình nghĩa
vợ chồng,
gia đình
khang lạc.
Dưới cội mai
vàng (biểu
tượng của
Phúc) là đôi
chim cun cút
hoặc một đàn
gà con cùng
gà trống gà
mái cũng là
biểu tượng
của ân nghĩa
tao khang,
quan hệ nhân
luân. Tranh
phụ đề «ân
nghĩa tại
sinh tiền»
恩義在生前 (ân
nghĩa đối
với nhau lúc
còn sống)
thật là cảm
động và thâm
trầm biết
bao!
Tranh «Thập
toàn báo hỉ»
十全報喜 vẽ mười
con chim
khách đậu
trên phiến
đá và trên
cây tùng hót
líu lo báo
tin mừng
(chim khách
được tin
tưởng là báo
điềm lành
nên tục gọi
nó là «hỉ
thước» 喜鵲),
tranh để
chúc sự
nghiệp thành
công.
Mẫu đơn phối
hợp với cá
lội là biểu
tượng: «Phú
quý hữu dư»
富貴有餘
(phú quý dư
dật) là lời
chúc nguyện
tốt đẹp vào
ngày đầu
năm. Mẫu đơn
vẽ chung với
khổng tước
(chim se sẻ)
mang tên «Khổng
tước khai
bình»
孔雀開屏 là
tranh chúc
mừng khai
trương cửa
tiệm. Hoa
xuân điểm
thêm vài
cánh bướm,
tạo sinh
động cho
tranh. Bướm
là điệp
蝴 (hay
hồ điệp
蝴蝶)
đồng âm
/dié/ với
điệp
疊
(trùng
điệp 重疊).
Tranh mẫu
đơn điểm
thêm cánh
bướm ngụ ý
phú quý
trùng điệp
富貴重疊. Hoặc
trên cánh
hoa vẽ con
dế, cho ta
hình dung
tiếng thu
đang về rồi
với tiếng
nhạc để râm
ran đâu đây.
Từ
đời Đường
(618-907)
trở về
trước, hoa
điểu được vẽ
chỉ để trang
sức cho khí
cụ đồ vật,
hoặc để điểm
xuyết thêm
cho nhân
vật. Bắt đầu
từ đời Đường
là thời kỳ
phồn thịnh
phú cường
trong lịch
sử Trung
Quốc. Giao
thông phát
triển, giao
lưu văn hóa
với các dân
tộc, kinh tế
xã hội phồn
vinh, văn
học nghệ
thuật được
đề cao. Đến
nỗi mãi đến
những thế kỷ
gần đây mà
người Trung
Quốc vẫn
quen xưng là
«Đường nhân»
唐人 một cách
tự hào. Cho
nên trong
bối cảnh học
thuật văn
nghệ rực rỡ
như vậy,
không riêng
gì tranh hoa
điểu mà
tranh nhân
vật, tranh
sơn thủy
cũng phát
dương, tài
bồi có qui
củ và hệ
thống hơn.
Quyển
Đường Triều
Danh Họa Lục
唐朝名畫錄 có kể
ra trên hai
mươi họa gia
chuyên về
hoa điểu.
Trong đó nổi
bật nhất là
Biên Loan
邊鸞, Điêu
Quang Dẫn
刁光引, và Đằng
Xương Hựu
滕昌祐. Điêu
Quang Dẫn là
thầy của
Hoàng Thuyên
黃筌 và Từ Hi
徐熙. Điêu
Quang Dẫn
được mệnh
danh là tổ
sư về tranh
hoa điểu cho
đời sau.
Thời Ngũ Đại
(907-960)
trong cục
diện thập
quốc phân
loạn, tranh
hoa điểu vẫn
phồn thịnh;
đương thời
có «Từ Hoàng
nhị thể»
徐黃二体 nghĩa
là hai lối
vẽ, một của
Từ Hi và một
của Hoàng
Thuyên. Họa
pháp Từ và
Hoàng bất
đồng. Hoàng
là họa gia
chốn cung
đình, chủ
trương tả
chân. Từ là
dân áo vải
đất Giang
Nam, bút
pháp khoáng
đạt nghiêng
về tả ý.
Hoàng thiện
nghệ về chim
tước, Từ sở
trường về ve
sầu, bướm và
thảo trùng
khác. Quách
Nhược Hư 郭若虛
trong quyển
Đồ Họa Kiến
Văn Chí
圖畫見聞志 đã
nói: «Hoàng
gia phú quý,
Từ Hi dã dật.»
黃家富貴徐熙野逸 (Họ
Hoàng mô tả
cảnh phú
quý, Từ Hi
mô tả cảnh
điền dã an
nhàn.) Điều
đó thật dễ
hiểu. Hoàng
là họa sĩ
nơi đế đô
chuyên vẽ
những trân
cầm thụy
điểu trong
cung đình,
còn Từ là
Giang Nam xử
sĩ quen vẽ
dã trúc uyên
ngư chốn
giang hồ.
Như vậy thời
Ngũ Đại họa
pháp hoa
điểu đã thể
hiện rõ hai
phái: tả
thực 寫實
(realistic
style) và
tả ý 寫意
(impressionistic
style). Hai
phong cách
này càng
được phát
dương vào
đời Tống
(960-1276).
Tranh hoa
điểu đời
Tống phát
triển trên
cơ sở «Từ
Hoàng nhị
thể» của
thời Ngũ
Đại. Con
trai của
Hoàng Thuyên
là Hoàng Cư
Thái
黃居寀
rất nổi
tiếng, được
vời vào
Hoàng Gia
Hàn Lâm Họa
Viện, rất
được sủng ái
chốn hoàng
cung. Thanh
thế gia đình
họ Hoàng
càng lớn
mạnh, người
ái mộ Hoàng
thế cũng lắm
mà kẻ a dua
thì cũng
nhiều. Ảnh
hưởng họa
pháp của hai
họ Hoàng và
Từ không
những trong
cung đình mà
còn lan khắp
ra ngoài
nữa. Từ các
đời vua Tống
về sau,
phong cách
dã dật của
họ Từ cũng
được hâm mộ.
Con cháu của
Từ Hi là
Sùng Tự
崇嗣,
Sùng Huân 崇勳
và Sùng Củ
崇矩 nổi tiếng
từ đó. Phong
cách thịnh
hành bấy giờ
là phối hợp
Từ Hoàng nhị
thể với
nhau. Tiêu
biểu phong
cách phối
hợp này là
anh em Thôi
Bạch 崔白 và
Thôi Khác 崔愨
cùng với Ngô
Nguyên Du
吳元渝. Người
đời khen
phong cách
của anh em
Thôi và họ
Ngô là thanh
đạm nhã dật.
Bên cạnh họ,
Triệu Xương
趙昌 và Dịch
Nguyên Cát
易元吉 cũng rất
nổi tiếng.
Các danh thủ
về hoa điểu
có thể kể
thêm như
Ngải Tuyên
艾宣, Vương
Hiểu 王曉,
Triệu Cát
趙佶, Mã Bôn
馬賁, Đái Uyển
戴琬,
Hàn Nhược
Chuyết
韓若拙,
v.v... Triệu
Cát tức là
vua Huy Tông
徽宗 cuối đời
Bắc Tống.
Ông vua nghệ
sĩ này rất
tài hoa về
thư pháp,
sơn thủy, và
nhân vật,
đặc biệt là
hoa điểu.
Hiện nay
tranh hoa
điểu của ông
vua này là
cao giá nhất
trong các
tranh điểu
đời Tống.
Tống Huy
Tông được
khen ngợi về
nghệ thuật
bao nhiêu
thì càng bị
chê về chính
trị bấy
nhiêu. Thời
ông, triều
đình mục
nát, xã hội
nhiễu
nhương,
triều đình
chỉ trông
cậy đám
phường thị
thái giám,
để giặc Kim
tràn lấn cõi
bờ.
|
Chim ưng
và tùng
tranh Từ
Bi Hồng
(1895-1953) |
Đời Tống
phát triển
một họa pháp
gọi là
Văn nhân họa
pháp
文人畫法
(literati
style) do Tô
Thức 蘇軾
(Tô Đông Pha
蘇東坡) và Mễ
Phế (Mễ
Phất) 米芾
khai sinh
ra. Lúc bấy
giờ các văn
nhân rất
sính hội họa
và thư pháp.
Quan niệm Tô
Thức và Mễ
Phế cũng như
các họa gia
tài tử khác
cho rằng hội
họa bất tất
phải sao
chép thiên
nhiên, mục
đích của hội
họa là gia
tăng thi
hứng, không
cần phải mô
tả sự vật.
Bút và mực
du hí trên
trang giấy,
những nét
bút tiêu sái
của nghệ sĩ
cốt là bày
tỏ được ý
tình mà
thôi. Tô
Thức nói: «Luận
họa dĩ hình
tự, kiến dữ
nhi đồng lân.»
論畫以硎似見與兒同鄰
(Luận về
tranh mà căn
cứ trên hình
thể giống
như thật thì
đó là tiêu
chuẩn của
trẻ con).
Còn Mễ Phế
thì bảo: «Hào
phóng bất
câu thằng
kiểm.»
毫放不拘繩檢 (Nét
bút phóng
khoáng không
câu chấp vào
khuôn mẫu có
sẵn.) Đối
chiếu với
hội họa Âu
Châu, mãi
đến thế kỷ
XIX vẫn còn
thiên về tả
thực, thì
quan niệm
nghệ thuật
của Tô
Thức và
Mễ
Phế
(thế kỷ XII)
nói trên quả
là phóng
khoáng, đi
trước Tây
phương tới
sáu bảy trăm
năm vậy.
Nhưng cuối
đời Tống,
quan niệm về
văn nhân họa
pháp chỉ mới
ở giai đoạn
phôi thai,
mãi đến đời
Nguyên-Minh
và Thanh
quan niệm
này mới phát
triển sâu
rộng.
Đời Nguyên
(1234-1368)
dân Mông Cổ
thống trị
Trung Quốc,
tôn trọng võ
công, khinh
miệt văn học
nghệ thuật.
Nguyên Thái
Tông
(1229-1245)
chia dân làm
10 giai cấp:
quan (người
Mông Cổ),
lại, sư sãi,
đạo sĩ, thầy
thuốc, dân
công nghệ,
thợ thuyền,
đào kép hát,
nho sĩ, và
ăn mày. Kẻ
sĩ bị khinh
bỉ, chỉ hơn
lũ ăn mày;
khoa cử bị
bãi bỏ trong
một thời
gian lâu.
Trong bối
cảnh đó, dĩ
nhiên hội
họa cũng
không thể
nào phát
triển được.
Các họa gia
về hoa điểu
phân làm hai
phái: phái
phục cổ và
phái tự do.
Phái phục cổ
gồm có Tiền
Tuyển
錢選,
Vương Uyên
王淵, Trần
Trọng Nhân
陳仲仁, v.v...
Họ chủ
trương mô
phỏng họa
pháp họa gia
đời trước
như Hoàng
Thuyên,
Triệu Xương,
tức là lối
công bút mỹ
lệ. Phái tự
do thì tuân
thủ quan
niệm văn họa
pháp của Tô
Thức và Mễ
Phế đời
Tống, nhưng
không có ai
nổi bật.
Đời Minh
(1368-1644),
kể từ Chu
Nguyên
Chương (một
anh hùng áo
vải phất cờ
khởi nghĩa
lật đổ nhà
Nguyên) lên
ngôi, nền
học vấn nghệ
thuật được
phục hưng,
khoa cử được
coi trọng.
Tuy nhiên
dẫu Hàn Lâm
Họa Viện đã
khôi phục
lại, người
tài được
chiêu vời
đến, nhưng
các vua đời
Minh chuyên
chế, quen
nghiêm hình
tuấn phạt,
cho nên các
họa gia
không dám
thoát ra
khuôn phép
cũ: sáng tác
phải phụng
thừa thánh
chỉ, phần
lớn mô phỏng
ý tứ của cổ
nhân, nhất
nhất đều chỉ
nhằm tránh
được lỗi
lầm. Hiện
tượng sao
chép cổ nhân
không chỉ
trong họa
giới mà còn
trong văn
giới nữa.
Tiêu biểu
cho phái
phục cổ
tranh hoa
điểu là Biên
Văn Tiến 邊文進
và Lã Kỷ 呂紀.
Về sau có
cha con Lâm
Lương 林良 mới
nổi tiếng về
thủy mặc hoa
điểu theo
lối tả ý.
Giữa đời
Minh về sau,
lối tả ý mới
thịnh hành.
Các cao thủ
về hoa điểu
tả ý có Trần
Thuần
陳淳
và Từ Vị 徐渭.
Chu Chi Miện
周之冕 nổi
tiếng về
sáng kiến vẽ
hoa rất tỉ
mỉ còn vẽ lá
thì theo lối
tả ý, tức là
kết hợp công
bút với ý
bút. Trong
khi đó Trần
Hồng Thụ 陳洪綬
nổi bật với
tranh hoa
điểu theo
lối công bút
cố hữu của
ông.
Lan – tranh
Kim Nông
(1687-1764)
Đến đời Mãn
Thanh
(1644-1911)
dân tộc Mãn
thống nhất
Trung Quốc.
Nhiều phong
trào phản
Thanh phục
Minh nổi
dậy. Tướng
Trịnh Thành
Công khởi
nghĩa vùng
Giang Nam,
Chiết Giang,
sau lập căn
cứ ở đảo Đài
Loan, mộng
không thành,
ôm hận mà
chết. Còn
Mạc Cửu thì
sang Hà Tiên
(Việt Nam)
lập nghiệp,
không chịu
khuất thân
với Thanh
triều. Nhà
Thanh một
mặt thẳng
tay đàn áp
người khởi
nghĩa phục
Minh, một
mặt biết
chiêu dụ
nhân tài,
thu dùng kẻ
sĩ. Các vua
Khang Hi và
Càn Long vừa
giỏi võ nghệ
vừa trọng
văn hóa, cho
nên văn học
nghệ thuật
cũng rất
thịnh. Về
phương diện
hội họa, các
họa gia vẫn
tuân thủ quy
phạm điển
chương họa
pháp đời
Minh, nghĩa
là vẫn mô
phỏng cổ
nhân, không
có gì đặc
sắc về mặt
sáng tác.
Tuy nhiên
riêng về hoa
điểu có
nhiều phát
triển. Uấn
Nam Điền 惲南田
nổi tiếng về
lối vẽ không
viền nét (một
cốt họa pháp)
được coi là
phương cách
thể hiện màu
hoa tươi tắn
và mềm mại.
Ngoài ra còn
có Hoa Nham
華嵒, Lý Thiện
李鱓, Kim Nông
金農 đều sở
trường về
hoa điểu,
bút pháp
giản dị độc
đáo. Bút
pháp tân kỳ
nhất là của
hai di thần
nhà Minh:
Thạch Đào
Hòa Thượng
石濤和尚 và Bát
Đại Sơn Nhân
八大山人 mang
tâm trạng bi
thống của kẻ
vong quốc,
khí bút hào
phóng dị kỳ.
|
Hoa
sen
–
tranh
của Bát
Đại Sơn
Nhân |
Cuối đời
Thanh, giao
thông giữa
Đông và Tây
thường xuyên
hơn. Tất
nhiên lối
họa truyền
thống Trung
Quốc và lối
họa Tây
phương cũng
có ảnh hưởng
hỗ tương
nhất định.
Tuy vậy đa
số họa gia
Trung Quốc
vẫn duy trì
phong cách
hội họa
truyền thống
của họ. Về
hoa điểu,
công bút có
Nhiệm Bá
Niên 任伯年, ý
bút có Tề
Bạch Thạch
齊白石, Ngô
Xương Thạc
吳昌碩, Cao Kỳ
Phong 高奇峰,
Cao Kiếm Phụ
高劍父, Trần
Thụ Nhân
陳樹人, Vu Phi
Ám 于非闇, Từ
Bi Hồng
徐悲鴻...
Cao Kỳ
Phong, Cao
Kiếm Phụ,
Trần Thụ
Nhân, Triệu
Thiếu Ngang
趙少昂, Lê Cát
Dân 黎葛民 được
coi là những
người khai
sáng họa
phái Lĩnh
Nam 嶺南, một
họa phái kết
hợp sáng tạo
lối vẽ cổ
truyền Trung
Quốc và lối
vẽ Tây
phương cận
đại. Chi
phái Lĩnh
Nam tại Việt
Nam do ông
Lương Thiếu
Hàng 梁少航
sáng lập
(môn đệ của
Triệu Thiếu
Ngang). Ông
Lương tạ
thế, môn đệ
là Lý Tùng
Niên 李松年 kế
tục, lập nên
nhóm Nam Tú
Nghệ Uyển
南秀藝苑 tại Chợ
Lớn ngày
nay.●
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]