Những bài cùng tác giả
✔ [mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
Mỗi khi
thưởng ngoạn
một bức
tranh Trung
Quốc, ấn
tượng ban
đầu của đa
số chúng ta
hầu như ở
phương diện
hình thức,
tức là đánh
giá xem
tranh vẽ có
đẹp hay
không. Nhưng
nếu tự hỏi
tại sao
tranh có chủ
đề như thế,
hay tác giả
muốn gởi gấm
điều gì qua
bức tranh
ấy, có lẽ
không ít
người lúng
túng tìm câu
giải đáp.
Ở đây chúng
ta sẽ không
xét tới
những hoạ
phẩm của
những tác
giả hiện đại
chịu ảnh
hưởng những
trường phái
hội hoạ Tây
phương (như
phái ấn
tượng, phái
siêu thực,
v.v...) mà
chính tác
giả mới hiểu
hoặc không
ai hiểu gì
cả (kể cả
tác giả).
Chúng ta
cũng không
xét tới các
hoạ phẩm
mang tính
chất tôn
giáo bởi vì
mục đích của
tranh đã
thấy rõ.
Chúng ta sẽ
xét những
bức tranh
mang đậm nét
truyền
thống, thậm
chí dân
gian, để
thấy ý nghĩa
biểu tượng
được gởi gấm
trong đó.
Thí dụ như
tranh có các
chủ đề như:
hoa điểu,
rồng, ngựa,
vượn, cá,
tùng hạc,
sơn thuỷ,
v.v...
Đối với loại
tranh này,
cái chủ đề
với ý nghĩa
biểu tượng
thì quan
trọng hơn
phong cách
hay kỹ thuật
thể hiện
(thuật ngữ
chuyên môn
gọi là kỹ
pháp
技法).
Tác giả có
thể dùng
công bút
工笔
(tức là lối
vẽ tỉ mỉ,
bất cứ vật
gì cũng có
đường viền
thậm chí
cọng cỏ hay
chiếc lá,
rồi tô màu
lên); hoặc
dùng ý
bút
意笔
(tức là lối
vẽ phóng
khoáng, loại
bỏ hoặc rất
hạn chế
đường viền,
thậm chí một
nét bút cũng
thành lá lan
hay cọng
cỏ). Tác giả
cũng có thể
dùng màu sắc
rực rỡ tươi
thắm, hoặc
màu sắc nhàn
nhạt lạnh
lẽo, thậm
chí vẽ toàn
mực đen
(thuật ngữ
gọi là
mặc hoạ
墨畫).
Dù sao mặc
lòng, tất cả
điều ấy cũng
chỉ là những
hình thức
thể hiện đa
dạng, mà mục
đích chủ yếu
là nhằm
chuyển tải
một ý nghĩa
biểu tượng
nào đó.
Có hai điểm
nổi bật của
loại tranh
này. Thứ
nhất, trong
cuộc sống
người ta
thường gán
cho một sự
vật nào đó
một ý nghĩa
biểu tượng.
Thí dụ: trúc
là quân tử,
mai là giai
nhân, cây
tùng và chim
hạc ngụ ý
trường thọ
(tùng hạc
diên niên
松鶴延年),
v.v... Hoạ
sĩ chỉ việc
thể hiện nó
bằng kỹ pháp
riêng của
mình. Đặc
điểm thứ hai
là thông qua
ngôn ngữ
(nhất là từ
ngữ đồng âm
hay cận âm)
người ta sẽ
liên tưởng
hình vẽ này
đến một sự
vật nào đó
với ý nghĩa
biểu tượng
nhất định
trong tâm
thức chung
của mọi
người. Thí
dụ bức tranh
vẽ con cá.
Chữ Hán
ngư
魚
(cá) đồng âm
[yú] (âm Bắc
Kinh) với
chữ dư
餘
(dư thừa, dư
dật). Qua ý
nghĩa biểu
tượng này là
niềm ao ước
một cuộc
sống dư dật,
khá giả. Nếu
vẽ 9 con cá,
thì ước
nguyện này
càng mạnh
mẽ. Chữ Hán
cửu
九
(số 9) đồng
âm [jiǔ] với
chữ cửu
久(lâu
dài, trường
cửu). Cửu
ngư
九魚
(9 con cá)
phát âm [jiǔ
yú] giống
như cửu
dư
久餘
(dư dật lâu
dài), ngụ ý
một ước mong
được sống
khá giả mãi.
Điều này
cũng giống
như người
Việt Nam sắp
đặt dĩa trái
cây chưng
tết gồm mãng
cầu, dừa
xiêm, đu đủ,
xoài với ước
nguyện khiêm
tốn «cầu vừa
đủ xài»
trong tiết
xuân sang;
bởi vì người
Việt ở Nam
Bộ phát âm
«dừa» giống
như «vừa»,
«xoài» giống
như «xài».
(Thật ra
mong ước đó
không khiêm
tốn đâu, bởi
vì ở đời
biết thế nào
mới là đủ).
Tất nhiên sự
so sánh này
chỉ nhắm vào
khía cạnh
ngôn ngữ,
không xét
tới hình
thức thể
hiện.
 |
Tranh
của
Đường
Dần (đời
Minh) |
Sau đây
chúng ta thử
tìm ra một
số hình ảnh
biểu tượng
trong hội
hoạ Trung
Quốc. Trước
tiên, khi
nói đến
tranh thuỷ
mặc
水墨
(thường bị
đọc nhầm là
thuỷ mạc)
thì chúng ta
thường liên
tưởng ngay
đến tranh
sơn thủy.
Đây là một
mảng đề tài
đặc sắc
trong hội
hoạ Trung
Quốc. Hai
chữ sơn
thuỷ có
ý nghĩa
triết lý
thâm trầm
của chúng,
không chỉ
đơn thuần
sơn
山
là núi non,
thuỷ
水
là sông
nước.
Khổng Tử
từng nói
rằng: «Kẻ
trí vui chơi
nơi sông
nước, kẻ
nhân vui
chơi nơi núi
non. Kẻ trí
hiếu động,
kẻ nhân trầm
tĩnh. Kẻ trí
vui vẻ, kẻ
nhân trường
thọ.»
知(智)者樂水,
仁者樂山,
知(智)者動,
仁者靜,
知(智)者樂,
仁者壽
(Trí giả
nhạo thuỷ,
nhân giả
nhạo sơn,
trí giả
động, nhân
giả tĩnh,
trí giả lạc,
nhân giả
thọ.–
Luận Ngữ
- Ung Dã).
Sông nước
trôi chảy,
linh động
biến dịch
không ngừng,
tìm về trùng
dương mênh
mông. Sự
trôi chảy
không ngừng
này tượng
trưng bản
thể của Đạo.
Khổng Tử có
lần đứng
trên bờ
sông, nhìn
nước chảy,
giác ngộ lý
lẽ ấy, nên
ngài tán
thán: «Ôi,
trôi chảy
thế này,
ngày đêm nó
không hề
ngừng nghỉ
!»
逝者如斯夫不舍晝夜
(Thệ giả như
tư phù, bất
xả trú dạ !
– Luận
Ngữ - Tử
Hãn).
Do đó, kẻ
trí tuệ thấu
đạt lý lẽ
của sự vật,
linh hoạt
tiến triển
mãi không
ngưng trệ,
cũng linh
động như bản
tính của
nước. Kẻ
nhân ái yên
ổn với nghĩa
lý mà dày
dặn kiên cố
vững bền,
cũng tĩnh
như bản tính
của núi.
Động và tĩnh
nói về bản
thể, mà vui
vẻ trường
thọ là nói
về hiệu quả
đạt được.
Người nhân
ái và trí
tuệ xưa nay
hiếm. Trong
cõi trần ai,
ngay bản
thân kẻ nhân
và trí cũng
không biết
tìm đâu ra
bạn tri âm
tri kỷ.
Không biết
tìm đâu, nên
mượn tranh
sơn thuỷ để
ký thác tâm
tình, gởi
gấm nỗi
niềm. Nhưng
triết lý của
sơn thuỷ có
lẽ là do
giới thưởng
ngoạn đời
sau gán cho.
Thuở xa xưa,
chắc gì các
hoạ gia đã
nghĩ như
thế.
Chủ
đề nổi bật
thứ hai là
hoa điểu
花鳥
(hoa và chim
chóc). Về
hoa, các văn
nhân Trung
Quốc thường
gán cho từng
loại hoa một
đức tính,
một ý nghĩa
tượng trưng
văn học nào
đó, và các
họa sĩ đã
tiếp thu
toàn bộ
những quan
niệm này.
Chẳng hạn
Chu Đôn Di
周惇頤
đời Tống
từng nói:
«Trong các
loài hoa,
cúc là kẻ ẩn
dật, mẫu đơn
là kẻ phú
quý và sen
là bậc quân
tử vậy.»
菊花之隱逸者也牡丹花之富貴者也蓮花之君子者也
(Cúc, hoa
chi ẩn dật
giả dã; mẫu
đơn, hoa chi
phú quý giả
dã; liên,
hoa chi quân
tử giả dã).
 |
Quan niệm
cúc là kẻ ẩn
dật có lẽ
phát xuất từ
Đào Tiềm
陶潛
tức Đào Uyên
Minh
陶淵明
đời Tấn, một
thi sĩ vĩ
đại, chán
cảnh làm
quan luồn
cúi, treo áo
từ quan,
hưởng thú
điền viên,
vui cảnh
nghèo, thích
uống rượu
chơi cúc và
nhàn du.
Người đời
khen ông là
bậc ẩn dật
cao khiết.
Trong bài Ẩm
Tửu
飲酒
của ông có
nhắc đến hoa
cúc: «Hái
cúc dưới
giậu đông,
thơ thới
nhìn núi
Nam.»
採菊東籬下悠然見南山
(Thái cúc
đông ly hạ,
du nhiên
kiến Nam
Sơn). Người
ẩn sĩ này
uống rượu
ngắm cúc để
quên cảnh
náo nhiệt,
trầm luân
trong đời,
cho nên hoa
cúc cũng là
biểu tượng
của bậc quân
tử ẩn dật
lánh đời
vậy. Đào
Tiềm từng
thốt rằng:
«Hoa cúc mùa
thu có sắc
đẹp, phơi lộ
nét anh tú,
khiến ta
quên tình
buồn, lánh
xa tình
đời.»
秋菊有佳色裛露掇其英泛此忘憂物遠我遺世情
(Thu cúc hữu
giai sắc, ấp
lộ xuyết kỳ
anh, phiếm
thử vong ưu
vật, viễn
ngã di thế
tình).
Người giàu
có ưa chuộng
màu sắc lộng
lẫy rực rỡ
của mẫu đơn.
Mẫu đơn là
loài hoa quý
hiếm, chỉ có
bậc quyền
quý đài các
mới chơi hoa
này. Cho nên
mẫu đơn là
biểu tượng
của sự giàu
sang phú
quý.
Hoa sen là
cốt cách của
bậc quân tử.
Đẹp và ngát
hương, gần
bùn mà chẳng
tanh bùn. Dù
cuộc đời ô
trọc, nhân
tình ấm
lạnh, bậc
quân tử vẫn
giữ được
tiết tháo
của mình,
thơm tho và
tinh khiết
như đóa sen
kia.
 |
Tranh
của Từ
Vị (đời
Minh) |
Cổ nhân gọi
tùng, trúc,
mai là ba
người bạn
mùa lạnh (tuế
hàn tam hữu
歲寒三友),
bởi vì ba
loại cây này
dù mùa sương
tuyết vẫn
tươi tốt
trong khi
những loại
cây khác hầu
như cằn cỗi
héo hon.
Tính chịu
lạnh của
tùng, trúc,
mai tượng
trưng đức
tính nhẫn
nại của
người quân
tử, tự cường
mãi không
thôi, luôn
trau giồi
tài đức
trước nghịch
cảnh cuộc
đời.
Mai, lan,
cúc, trúc
thường được
gộp chung
thành một
cụm, xem như
biểu tượng
của bậc quân
tử, nên cũng
được gọi là
«tứ quân tử»
四君子(bốn
người quân
tử). Mai nở
vào mùa đông
và xuân,
chịu đựng
lạnh lẽo.
Lan kiều
diễm mảnh
mai, hương
thơm thâm
trầm. Trúc
ngay thẳng,
vô tâm, đầy
tiết tháo.
Cúc trải
sương giá mà
chẳng héo
hon, có ý
chí thách đố
thiên nhiên.
Hơn hai ngàn
năm trước,
thi nhân
Khuất Nguyên
thậm chí còn
so sánh hoa
lan với mỹ
nhân rằng:
«Thu lan ơi
mườn mượt,
cọng tía
cùng lá
xanh. Đầy
nhà toàn
người đẹp,
riêng với ta
đưa tình.»
秋蘭兮清清綠葉兮紫莖滿堂兮美人忽獨與余兮且成
(Thu lan hề
thanh thanh,
lục diệp hề
tử hanh. Mãn
đường hề mỹ
nhân, hốt
độc dữ dư hề
thả thành).
Hoa cúc trác
việt siêu
phàm, là
biểu tượng
của bậc quân
tử ở ẩn mà
trên đây đã
đề cập. Đời
Tống có
ẩn sĩ Lâm Bô
林逋
yêu hoa mai
đến độ không
cần có vợ
con, chỉ
chuyên tâm
trồng hoa
mai và nuôi
hạc. Người
đời tặng cho
ông câu
mai thê hạc
tử
梅妻鶴子
(hoa mai
là vợ, chim
hạc là con).
Yêu trúc có
thể kể đến
Tô Thức. Ông
nói: «Thà ăn
không có
thịt chứ
không thể ở
thiếu trúc.»
寧可食無肉不可居無竹
(Ninh khả
thực vô
nhục, bất
khả cư vô
trúc).
Không
chỉ hoa, mà
quả cũng
mang ý nghĩa
biểu tượng
nữa. Chẳng
hạn quả đào
tượng trưng
sự trường
thọ; thí dụ
tranh «Đào
hiến thiên
xuân»
桃獻千春
(đào dâng
nghìn tuổi
xuân) vẽ ông
lão cầm quả
đào. Quả lựu
tượng trưng
cho sự đông
con cái; thí
dụ tranh
«Lựu khai
bách tử»
榴開百子(quả
lựu mở sinh
trăm con) vẽ
ông lão cầm
quả lựu bóc
dở, cho
trông thấy
hạt. Quả
phật thủ
tượng trưng
cho phúc;
thí dụ tranh
vẽ quả phật
thủ (phúc)
với quả đào
(thọ) và quả
lựu (đông
con) là ngụ
ý: đa phúc,
đa thọ, đa
nam tử. Quả
quít tượng
trưng sự tốt
lành (cát).
Ngay trong
đời sống
hằng ngày
người ta
cũng thích
biếu xén
nhau quít.
Hoa thường
được vẽ
chung với
điểu. Chim
hạc tượng
trưng cho sự
trường thọ.
Người Trung
Quốc tin
rằng hạc
sống đến
ngàn năm
(hạc thọ
thiên tuế
鶴壽千歲).
Hạc thường
được vẽ
chung với
cây tùng
(cũng ngụ ý
trường thọ),
nên tranh
«Tùng hạc
diên niên»
松鶴延年
(tùng và hạc
sống lâu)
được dùng để
chúc thọ.
Thi nhân cho
rằng chim én
là loài chim
nhỏ có cảm
tình, mùa
thu và mùa
đông bay đi
tìm cái ấm
áp của miền
nhiệt đới và
mùa xuân
quay về tổ
cũ. «Xuân
phong yến
hỉ»
春風燕喜
(chim yến
vui trong
gió xuân) mô
tả một đôi
én về tổ
trong cành
liễu xanh
phất phơ hay
cành đào
hồng thắm.
Một bức
tranh với
đôi én hoặc
một bức
tranh với
cặp hồng
nhạn (vịt
trời) hay
đôi uyên
ương bơi lội
trong ao sen
chính là
biểu tượng
tình nghĩa
vợ chồng,
gia đình
khang lạc.
 |
SONG THỌ
- tranh
Tề Bạch
Thạch |
Tranh «Thập
toàn báo hỉ»
十全報喜
vẽ mười con
chim khách
đậu trên
phiến đá và
trên cây
tùng hót líu
lo báo tin
mừng (chim
khách được
tin tưởng là
báo điềm
lành nên tục
gọi nó là
«hỉ thước»
喜鵲),
tranh để
chúc sự
nghiệp thành
công.
Dưới cội mai
vàng (biểu
tượng của
phúc) là đôi
chim cun cút
hoặc một đàn
gà con cùng
gà trống gà
mái cũng là
biểu tượng
của ân nghĩa
tào khang,
quan hệ nhân
luân. Tranh
phụ đề «ân
nghĩa tại
sinh tiền»
恩義在生前
(ân nghĩa
đối với nhau
lúc còn
sống) thật
là cảm động
và thâm trầm
biết bao!
Con gà mái
với bầy con
tượng trưng
cho gia đình
đông đúc,
đầm ấm.
Con công
tượng trưng
cho sự bình
an thịnh
vượng. Chim
phượng
(thường gọi
gộp là
phượng hoàng,
thực ra
phượng
鳳
là con
trống,
hoàng
凰
là con mái)
là linh
điểu, tương
truyền chim
phượng xuất
hiện là
thánh nhân
ra đời.
Nhưng chim
loan và chim
phượng thì
tượng trưng
duyên nợ vợ
chồng. Tranh
«loan phượng
hoà minh»
鸞鳳和鳴
(chim loan
và chim
phượng hoà
chung tiếng
hót) ngụ ý
sự hoà thuận
êm ấm của vợ
chồng.
Một số động
vật cũng có
ý nghĩa biểu
tượng. Rồng
(long
龍
), một con
vật huyền
thoại, là
biểu tượng
của vương
quyền. Kỳ
lân (kỳ
麒
là con đực,
lân
麟
là con cái)
tượng trưng
nhân ái và
thái bình.
Con rùa (quy
龜)
cũng là thần
vật, tương
truyền nó
sống tới
ngàn năm,
nên tượng
trưng sự
trường thọ.
Ngựa là một
chủ đề quen
thuộc. Dân
gian cho
rằng ngựa có
đức tính
trinh tiết,
ý thức rõ
quan hệ
truyền
chủng, không
vi phạm cái
mà luân lý
loài người
gọi là loạn
luân. Như
Dịch Kinh
từ đời
Chu đã ca
ngợi là «Tẫn
mã chi
trinh»
牝馬之貞
(đức trinh
tiết của
ngựa cái).
Ngựa còn có
đức tính
trung thành,
một đức tính
mà Nho gia
rất coi
trọng trong
các mối quan
hệ xã hội.
Tuy nhiên,
trong thực
tế, ngựa từ
thời xa xưa
có giá trị
rất cao.
Trong chiến
tranh ở
Trung Quốc
cổ đại, ngựa
giữ vai trò
rất quan
trọng có thể
gọi là nền
tảng của sức
mạnh quân
sự. Các kỵ
binh du mục
trên lưng
các chiến mã
thần tốc và
dũng mãnh
luôn là mối
kinh hoàng
cho binh
quân của
Trung Quốc.
Trong giao
thông vận
tải thì ngựa
là phương
tiện nhanh
chóng và hữu
hiệu. Từ đời
Thương người
ta đã biết
đánh xe ngựa
tới nơi xa
xôi để buôn
bán. Ngoài
giá trị quan
trọng của
ngựa trong
vận tải và
quân sự,
người ta còn
tìm thấy giá
trị y học
của ngựa,
được mô tả
trong Bản
Thảo Cương
Mục
(xuất bản
1596) nữa.
Cứ xem đời
nay mà xét,
ngày nay
người ta xem
những xe hơi
hiện đại
sang trọng
là biểu
tượng của
giàu có thì
ngày xưa
ngựa chính
là biểu
tượng đó.
Nói chung,
ngựa xuất
hiện trong
tranh Trung
Quốc như là
biểu tượng
của sự mau
chóng và
thành đạt.
Thí dụ bức
tranh có chủ
đề phổ biến
nhất là «mã
đáo thành
công»
馬到成功
thể hiện qua
một bầy ngựa
phi nước đại
gió bụi mịt
mù. Nguyên ý
câu này là
«Kỳ khai đắc
thắng, mã
đáo thành
công»
旗開得勝馬到成功
(Cờ phất
[làm hiệu
thì] chiến
thắng, ngựa
quay về [báo
tin] thành
công). Ngày
xưa khi xuất
binh phải
phất cờ
hiệu, mà cờ
đã phất rồi
thì phải
chiến thắng;
tướng soái
khi lấy đầu
tướng giặc,
chiến mã
quay về tất
báo tin
thành công.
Ý nghĩa câu
«mã đáo
thành công»
ngày nay chỉ
còn tượng
trưng là tốc
chiến tốc
thắng. Và
một bức
tranh «mã
đáo thành
công» làm
quà khai
trương cho
một cửa hiệu
chỉ đơn giản
tương tự như
là «khai
trương hồng
phát» (mở
cửa tiệm thì
phát đạt
lớn).
Có
những vật
tưởng như
bình thường
nhưng cũng
có ý nghĩa
đặc biệt,
thí dụ con
cóc tía
(thiềm thừ
蟾蜍)
tượng trưng
cho sự giàu
có, can đảm,
và cái gì
quý báu, khó
kiếm ra
được. Con
bướm (hồ
điệp
蝴蝶)
tượng trưng
sự trùng
điệp. Con
mèo tượng
trưng sống
lâu. Con cá
chép (lý ngư
鯉魚,
cá hoá long,
cá vượt vũ
môn) tượng
trưng thi
đỗ, v.v...
Rồi sự kết
hợp nhiều
thứ khác
nhau cũng có
ngụ ý tổng
hợp. Thí dụ
hoa kết hợp
với điểu,
thảo trùng,
cá, đá
(tượng trưng
sự vững
chắc) và các
khí vật khác
(thí dụ cái
bình hoa,
ngụ ý an
bình) làm
tăng thêm
thi ý cho
tranh,
thường đó là
lời chúc
nguyện cát
tường.
Mẫu đơn phối
hợp với cá
lội là biểu
tượng «Phú
quý hữu dư»
富貴有餘
(phú quý dư
dật) là lời
chúc nguyện
tốt đẹp vào
ngày đầu
năm. Mẫu đơn
vẽ chung với
khổng tước
(chim công)
mang tên
«Khổng tước
khai bình»
孔雀開屏
là tranh
chúc mừng
khai trương
cửa tiệm.
Hoa xuân
điểm thêm
vài cánh
bướm, tạo
sinh động
cho tranh.
Bướm ngụ ý
là trùng
điệp. Tranh
mẫu đơn điểm
thêm cánh
bướm ngụ ý
phú quý
trùng điệp
富貴重疊.
Hoặc trên
cánh hoa vẽ
con dế, cho
ta hình dung
tiếng thu
đang về rồi
với tiếng
nhạc để râm
ran đâu đây.
Như trên đã
nói, thông
qua ngôn ngữ
(nhất là từ
ngữ đồng âm
hay cận âm)
người ta sẽ
liên tưởng
hình vẽ này
đến một sự
vật nào đó
với ý nghĩa
biểu tượng
nhất định
trong tâm
thức chung
của mọi
người.
- Bông hoa,
chữ Hán là
hoa
花
phát âm [huā]
gần giống
chữ hoa
華
(vinh
hoa) [huá].
-
Hoa sen, chữ
Hán là
liên
蓮
phát âm
[lián] giống
như chữ
liên
連
(liên
tục) [lián];
hoặc chữ Hán
là hà
荷
phát âm
[hé] giống
như chữ
hoà
和
(hoà
hợp) [hé].
- Quả thị
hay cành
thị, chữ Hán
là thị
柿
phát âm
[shì] giống
như chữ
sự
事
(sự
việc) [shì].
- Quả lựu,
chữ Hán là
lựu
榴
phát âm
[liú] giống
như chữ
lưu
流
(trôi chảy,
lưu truyền)
[liú].
- Cây phong,
chữ Hán là
phong
楓
phát âm [fēng]
giống như
chữ phong
封
(ban phong)
[fēng].
- Cây ngô
đồng, chữ
Hán là
đồng
桐
phát âm
[tóng] giống
như chữ
đồng
同
(cùng với)
[tóng].
- Cành mai,
chữ Hán là
mai
梅
phát âm
[méi] gần
giống chữ
mỗi
每
(mỗi
thứ, mỗi
người)
[měi].
- Cành trúc,
chữ Hán là
trúc
竹
phát âm
[zhú] gần
giống chữ
chúc
祝
(chúc
tụng) [zhù].
- Con gà,
chữ Hán là
kê
雞
phát âm
[ji] gần như
chữ cát
吉
(tốt lành)
[jí].
- Con cá,
chữ Hán là
ngư
魚
phát âm
[yú] giống
như chữ
dư
餘
(dư
thừa, dư
dật) [yú].
- Con dơi,
chữ Hán là
bức
蝠
phát âm [fú]
giống như
chữ phúc
福
(hạnh
phúc) [fú].
Vẽ 5 con dơi
tức là
ngũ bức
五蝠
,
phát âm [wǔ
fú] giống
như ngũ
phúc
五福
. Con dơi vẽ
lộn ngược
tức là
đảo bức
倒
蝠
, phát âm
[dào fú]
giống như
đáo phúc
到福
(phúc đến).
-
Con mèo, chữ
Hán là
miêu
猫
phát âm
[máo] gần
giống chữ
mạo
耄
(già 80
tuổi) [mào].
- Con bướm,
chữ Hán là
điệp
蝶
phát âm
[dié] giống
như chữ
điệt
耋
(già 70
tuổi) [dié]
và chữ
điệp
疊
(trùng điệp)
[dié].
- Con hươu,
con nai, chữ
Hán là
lộc
鹿
phát âm [lù]
giống như
chữ lộc
禄
(bổng lộc)
[lù].
- Con vượn,
con khỉ, chữ
Hán là
hầu
猴
phát âm
[hóu] giống
như chữ
hầu
侯
(tước hầu)
[hóu].
- Cái quạt,
chữ Hán là
phiến
扇
phát âm
[shàn] giống
như chữ
thiện
善
(tốt
lành)
[shàn].
- Ống sáo,
chữ Hán là
sinh
笙
phát âm [shēng]
giống như
chữ sinh
生
(sinh
nở) [shēng]
và chữ
thăng
升
(bay lên)
[sheng].
- Cái lục
bình, chữ
Hán là
bình
瓶
phát âm
[píng] giống
như chữ
bình
平
(bình an)
[píng].
- Cái mũ,
cái mão, chữ
Hán là
quan
冠
phát âm [guān]
giống như
chữ quan
官
(ông quan)
[guan].
- Ngọc như ý
đúng ý nghĩa
là như ý
如意
[rú yì].
- Số 9, chữ
Hán là
cửu
九
phát âm
[jiǔ] giống
như chữ
cửu
久
(lâu dài)
[jiǔ].
- v.v...
Phối hợp
nhiều thứ
với nhau,
tranh vẽ
mang ý nghĩa
biểu tượng
tổng hợp.
Thí dụ như:
1. Tranh vẽ
quả đào với
5 con dơi
ngụ ý Ngũ
Phúc Lâm Môn
五福臨門.
Ngũ Phúc là:
phú
富(giàu),
thọ
壽
(sống lâu),
khang ninh
康寧
(khỏe mạnh),
du hiếu đức
攸好德
(yêu nhân
đức), khảo
chung mệnh
考終命
(chết êm
ái).
2. Tranh vẽ
quả phật
thủ với con
bướm ngụ
ý sống lâu
đến 70-80
tuổi, vì quả
phật thủ
tượng trưng
cho thọ hay
phúc, con
bướm (điệp)
ngụ ý già 70
tuổi (điệt
耋
) hay trùng
điệp (điệp
疊),
tức là phúc
thọ trùng
điệp
福壽重疊.
3. Tranh vẽ
quả phật
thủ
(phúc)
với quả đào
(thọ) và
quả lựu
(đông con)
ngụ ý tam đa
三多:
đa phúc
多福
(nhiều
phúc), đa
thọ
多壽
(rất thọ),
đa nam tử
多男子(nhiều
con trai).
4. Tranh vẽ
quả phật
thủ, quả
đào, quả lựu
với 9 miếng
ngọc như ý
ngụ ý «tam
đa cửu như»
三多九如
nghĩa là
chúc cho
phúc thọ,
con cháu đầy
đàn, bền
vững.
5. Tranh vẽ
quả lựu đã
bóc vỏ một
phần để lộ
hạt ra
ngụ ý «lựu
khai bách
tử»
榴開百子
(lựu mở
ra sinh trăm
con).
6. Tranh vẽ
quả lựu
với 5 cậu bé
con ngụ
ý mong cho
con cái sau
này đều hiển
đạt như 5
con của ông
Đậu Yên Sơn
đời Tống.
7. Tranh vẽ
quả lựu
榴
(ngụ ý lưu
truyền
流)
với cái
mũ
冠
(ngụ ý
tước quan
官),
cái đai lưng
(đái
帶),
cái thuyền
(thuyền
船
, đọc
giống
truyền
傳
) ngụ ý mong
cho «Quan
đái truyền
lưu»官帶傳流
(đai lưng
của quan
được lưu
truyền, tức
là được
phong quan
tước nhiều
thế hệ trong
gia tộc).
8. Tranh vẽ
hai quả
thị (ngụ
ý sự việc)
với ngọc
như ý là
mong «Sự sự
như ý»
事事如意
(vạn sự như
ý).
9. Tranh vẽ
cây ngô
đồng
桐
(đồng âm với
đồng
同
: cùng với)
với con
hươu (lộc
鹿
, đồng âm
với lộc
禄:
bổng lộc)
và chim hạc
鶴
(trường thọ)
là ngụ ý
«Lộc thọ
đồng lộc
hạc»
禄壽同鹿鶴
(được bổng
lộc và sống
lâu như
hươu, hạc).
10. Tranh vẽ
chim hỉ
thước
喜鵲
(vui vẻ)
đậu cây ngô
đồng
桐
(đồng âm với
đồng
同
: cùng với)
là ngụ ý
«đồng hỉ»
同喜
(mọi người
cùng vui
vẻ).
11. Tranh vẽ
đứa trẻ cỡi
trên lưng
con kỳ lân
tay cầm bông
sen
(liên
蓮
) và ống
sáo
(sinh
笙)
là ngụ ý
«Liên sinh
quý tử»
連生貴子
(liên tiếp
sinh quý
tử).
12. Tranh vẽ
4 đứa trẻ:
đứa cầm cành
táo
(tảo
棗
,
đồng âm với
tảo
早:
sớm), đứa
cầm ống sáo
(sinh
笙
),
đứa cầm cái
ấn quan văn,
đứa cầm cái
kích quan võ
là ngụ ý
mong: sớm
sinh con cái
sau này
thành quan
văn hay quan
võ.
13. Tranh vẽ
đứa trẻ
ăn mặc sang
trọng
(phú
富),
cổ đeo cái
khánh
罄
(đồng âm
với khánh
慶,
hiểu là may
mắn hạnh
phúc)
đang ngắm
bầy cá vàng
(ngư
魚,
hiểu là dư
thừa)
là ngụ ý
mong: giàu
có, đông
con, hạnh
phúc có
thừa.
14. Tranh vẽ
chim hỉ
thước
喜鵲
đậu cành mai
梅
(đồng âm với
mỗi
每
: mọi
người)
cành trúc
竹
(đồng âm
với chúc
祝:
chúc mừng)
là ngụ ý
mong cho mọi
người đều
vui vẻ.
15. Tranh vẽ
trúc mai
竹梅
ngụ ý mọi
người may
mắn.
16. Tranh vẽ
mai, trúc
với con mèo
và con bướm
là ngụ ý
mong mọi
người sống
lâu đến
70-80 tuổi.
17. Tranh vẽ
mẫu đơn
牡丹
(phú
quý) với
con gà (kê
雞
đồng âm với
cát
吉:
tốt lành)
ngụ ý «phú
quý cát
tường»
富貴吉祥.
18. Tranh vẽ
con khỉ
(hầu
猴)
trèo cây
phong
(phong
楓)
có cái ấn
印
cột vào
cành cây
ngụ ý «ấn
phong hầu»
印封侯,
tức là được
thăng quan
tiến chức
nói chung.
v.v...
Trên đây là
một số minh
hoạ tiêu
biểu. Tóm
lại, ý nghĩa
biểu tượng
của loại
tranh này
cho thấy ba
chủ ý của
tác giả:
1-
gởi gấm ý
chí;
2-
ước nguyện
mọi tốt lành
cho bản
thân;
3- và
cầu chúc
hạnh phúc
cho người
khác. Với
chủ ý thứ
ba, các bức
tranh này
thường được
người ta làm
quà tặng
nhau vào
những dịp
mừng thọ hay
những dịp
đặc biệt như
ngày đầu
năm, mà
những lời
chúc nguyện
rồi sẽ như
chồi non lộc
mới nảy nở
thành những
đoá hoa rực
rỡ tươi thắm
trong tiết
xuân sang.●

✔ [mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12] |