Những bài cùng tác giả
✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12]
Chương pháp
章法
là bố cục
bức thư
pháp. Trước
tiên, chúng
ta cần quan
sát hình
thức một bức
thư hoạ
(từ ngữ
chỉ chung
thư pháp
và tranh
thuỷ mặc)
Trung
Quốc.
Hình thức
Một bức thư
họa thường
có các dạng
như:
1.
Hình chữ
nhật đứng
(kiểu
portrait,
chiều dài ít
nhất gấp đôi
chiều rộng),
gọi là
thụ
phúc
豎幅,
điều phúc
條幅,
trực phúc
直幅,
trung đường
中堂,
lập
phúc
立幅. Hai tấm
chữ nhật
đứng song
song có viết
câu đối thì
gọi là
đối liên
對聯. Đôi khi
một bức thư
họa ở dạng
trực phúc
được đặt
giữa một đôi
đối liên,
treo trên
tường.

2.
Hình chữ
nhật ngang
(chiều dài
ít nhất gấp
đôi chiều
rộng), gọi
là
hoành phúc
橫幅,
hoành
phi
橫披.

3.
Hình vuông,
gọi là
đẩu
phương
斗方.

4.
Hình mặt
quạt,
gọi là
phiến
diện
扇面. Phiến
diện có thể
nằm lọt
trong các
hình chữ
nhật hoặc
vuông. Phiến
(quạt) có ý
nghĩa biểu
tượng. Chữ
phiến
扇
âm
Bắc Kinh là
/shàn/, đồng
âm với chữ
thiện
善
(tốt lành).
Do đó treo
bức thư họa
hình quạt
hoặc treo
hẳn một cây
quạt to
tướng (có
hình vẽ tứ
quân tử, các
loài hoa phú
quý, tranh
tùng hạc,
hay thư
pháp) trên
vách tường
là thể hiện
khát vọng
được mãi mãi
tốt lành,
điều thiện
luôn đến với
gia đình.

Khi bồi
tranh hoặc
bồi một bức
thư pháp, ta
phải chừa
biên. Nếu là
đẩu phương
thì bốn biên
đều nhau.
Nếu là trực
phúc hay
hoành phúc
thì biên
theo cạnh
dài phải
hẹp, biên
theo cạnh
rộng thật
rộng. Kích
thước mỗi
cạnh (từ một
mét trở lên)
tuỳ thuộc
vào nội
dung, số chữ
nhiều ít.
Nếu là tranh
có đề chữ,
kích thước
này tuỳ ý
họa gia ấn
định.
Đó
là các tấm
thư hoạ lộng
vào khung
kính. Khi
không lộng
vào khung
kính, tấm
thư họa được
bồi
(thuật ngữ
gọi là
trang biểu
裝裱)
bằng lụa và
giấy theo
một cách
thức đặc
biệt để có
thể cuộn lại
quanh một
trục
(gọi là
trục can
軸杆)
mang đi hoặc
trải ra và
treo lên
tường. Kiểu
thức này gọi
là thủ
quyển
手卷
(scroll).
Những bài
kinh ngắn ở
dạng thủ
quyển được
gọi là
trục kinh
軸經.
Thủ quyển
gồm nhiều bộ
phận với các
thuật ngữ
nhà nghề như
sau: (1 & 2)
sợi dây
treo, từ gút
dây toả ra
hai râu gọi
là (1) ti
đái
絲帶,
phần dây
treo gọi là
(2) điếu
thằng
吊繩;
(3)
thượng can上杆
(trục nhỏ
trên, không
nhô đầu trục
ra); (4)
kinh yến
驚燕 (hai dải
lụa, phất
phơ trước
gió, vừa
phủi bụi vừa
làm sinh
động, nên
gọi là «chim
én run sợ»:
kinh yến);
(5) thiên
đầu 天頭
(đầu hướng
lên trời);
(6) địa
đầu 地頭
(đầu hướng
xuống đất);
(7)
thượng cách
thủy 上隔水
và (11)
hạ cách thủy
下隔水 là
hai mảng
trống ngăn
cách; (8)
thi đường
詩堂 (phần
đề thơ); (9)
biên
邊; (10)
họa tâm
畫心 (phần
trung tâm
của bức thư
hoạ); (12)
trục can
軸杆 (trục
chính, to
hơn thượng
trục) nhô ra
hai đầu gọi
là (13)
trục đầu
軸頭. Mầu sắc
các phần
phải khác
biệt và đối
ứng nhau,
như biên và
thiên đầu,
địa đầu phải
cùng màu;
thượng cách
thuỷ và hạ
cách thuỷ
phải cùng
màu, khác
với màu
biên. Màu
sắc các phần
phải hài
hoà, không
chỏi nhau.
Chương pháp
Bố trí chữ
Hán trên mặt
giấy, ta
phải theo
qui tắc do
giới thư
pháp gia
Trung Quốc
ấn định:
* Không thụt
vô đầu hàng
(indent) như
viết chữ
Latin, dù là
hàng ngang
hay hàng
dọc. Cách
viết theo
hàng dọc
(hay theo
cột) là cách
viết truyền
thống, gọi
là thụ tả
豎寫;
cách viết
theo hàng
ngang (như
tiếng Việt,
tiếng Anh)
gọi là
hoành tả
橫寫.
Khi viết thư
pháp trên
phiến diện
thì phải
dùng thụ tả,
và viết chữ
vào khoảng
giữa các nan
quạt.
* Các hàng
đều và dài
bằng nhau
(như canh
hàng justify
trên máy
computer).
* Một chữ lẻ
loi không
đứng thành
một hàng
(nhất là ở
hàng cuối).
Do đó ta
phải đếm số
chữ toàn bài
rồi phân
chia số
hàng, số chữ
trong mỗi
hàng cho
thích hợp.
* Khoảng
trống ở hàng
cuối không
nên để dài
hơn phân nửa
chiều dài
của hàng, vì
tạo cảm giác
trống trải
cho người
xem. Nếu lỡ
bị như vậy
thì ta nên
ghi lạc
khoản vào đó
để bổ cứu.
* Không được
dùng dấu
chấm câu
(punctuation).
Các chữ nối
tiếp nhau
suốt bài y
như trong
sách cổ (gọi
là bạch văn
白文).
* Thư thể
không pha
trộn phồn
thể và giản
thể với
nhau. Thư
thể ở chính
văn và ở lạc
khoản phải
phân biệt
tuyển dụng
cho hài hòa:
Chính
văn |
Lạc
khoản |
1. Khải
thư |
1. Khải
thư hoặc
hành thư |
2. Lệ
thư |
2. Khải
thư |
3. Hành
thư |
3. Hành
thư |
4. Cuồng
thảo |
4. Cuồng
thảo
hoặc
hành thư |
5. Triện
thư |
5. Triện
thư hoặc
lệ thư |
Lạc
khoản
Lạc khoản 落款
cũng gọi là
khoản thức
款識, phân
thành
đơn khoản
單款 và
song khoản
雙款. Song
khoản phân
thành
thượng khoản
上款 và
hạ khoản
下款. Đơn
khoản tức là
hạ khoản.
Lạc khoản
ghi vào hàng
cuối của
bài.
I.
Thượng khoản:
Ghi tên cá
nhân hay tổ
chức nhờ cậy
ta thư pháp.
Đây là phần
trên cùng
của hàng
chót, là vị
trí quan
trọng dành
ghi những
tên tuổi ấy
để tỏ lòng
tôn trọng.
Nếu tự mình
thư pháp
không theo
yêu cầu của
ai, thì
không ghi gì
vào thượng
khoản.
Thượng khoản
gồm: «Tính
danh 姓名 +
xưng hô 稱呼 +
khiêm từ 謙詞»
(Trong các
thí dụ sau
đây, tên
người tức
tính danh
được đánh
dấu là
xx).
1.
Đối với
người trưởng
thượng,
ta ghi:
xx đồng chí
同志,
xx tiên sinh
先生,
xx phương
gia
方家,
xx nữ sĩ
女士,
xx lão sư
老師. Nếu
người đó
trên 70 tuổi
thì ghi
xx lão
老;
trên 80 tuổi
thì ghi
xx ông
翁. Nếu người
đó là nam,
hoạt động
trong ngành
ngoại giao
thì ghi là
các hạ
閣下. Còn về
phần người
làm thư
pháp, không
nhất thiết
xưng hô danh
tính, chỉ
cần khiêm từ
như:
chỉ chính
指正,
pháp chính
法正,
giáo chính
教正,
chính tự
正字,
chính uyển
正腕,
chính chi
正之,
thanh thưởng
清賞,
nhã thuộc
雅屬,
nhã chính
雅正,
phủ chính
斧正,
chính bút
正筆,
chính
thư
正書. Đại khái
nói khiêm
tốn rằng:
Xin nhờ ngài
xem và sửa
giúp cho tôi
những
chỗ còn
vụng.
Nếu tặng cho
người ấy thì
ghi là
nhã tồn
雅存,
huệ tồn
惠存, hay
huệ niệm
惠念. Thí dụ:
Nguyễn Hiền
tiên sinh
thanh thưởng
阮賢先生清賞; Quốc
Tuấn phương
gia chính
bút 國俊方家正筆;
Văn Tần các
hạ huệ niệm
文秦閣下惠念.
2.
Đối với
người ngang
hàng,
ta ghi:
xx đồng chí
同志,
xx nhân
huynh
仁兄,
xx nhân đệ
仁弟,
xx thư hữu
書友,
xx chí hữu
摯友,
xx đồng song
同窗,
xx đại huynh
大兄,
xx hiền đệ
賢弟,
xx tiểu đệ
小弟,
xx tiểu muội
小妹,
xx học hữu
學友,
xx bào huynh
胞兄,
xx bào đệ
胞弟. Khiêm từ
có thể là:
tồn niệm
存念,
huệ tồn
惠存,
lưu niệm
留念,
lưu tồn
留存,
thanh thưởng
清賞,
mệnh
thư
命書,
nhã thuộc
雅屬. Thí dụ:
Minh Hoa thư
hữu huệ tồn
明華書友惠存; Vĩnh
Lạc hiền đệ
nhã thuộc
永樂賢弟雅屬.
3.
Đối với
người nhỏ
tuổi hơn
mình hoặc
thuộc cấp,
ta ghi:
xx học sinh
學生,
xx hiền
khế
賢契,
xx hiền điệt
賢侄,
xx ái tôn
愛孫,
xx ái nữ
愛女, v.v...
tùy vai vế.
Khiêm từ
ghi:
minh ký
銘記,
chúc thư
囑書. Thí dụ:
Hiểu Phàm ái
nữ minh ký
曉凡愛女銘記; Văn
Hoa hiền khế
chúc thư
文華賢契囑書.
Phần kế tiếp
của thượng
khoản là ghi
xuất xứ của
chính văn.
Có thể đó là
thi từ, văn
cú, cách
ngôn, câu
răn lòng.
Rồi ghi tên
tác giả và
nhan đề. Thí
dụ: Vương
Bột Đằng
Vương Các tự
cú 王勃滕王閣序句;
Đỗ Phủ thi
khách chí
杜甫詩客至. Nếu
nội dung
chính văn
quá nổi
tiếng, ta
không cần
ghi xuất xứ.
Thí dụ: «Độc
thư phá vạn
quyển, hạ
bút như hữu
thần.»
讀書破萬卷下筆如有神.
II. Hạ
khoản:
Nếu không có
phần thượng
khoản thì
phần hạ
khoản phải
gọi là đơn
khoản. Nội
dung của hạ
khoản gồm:
«Thời
gian 時間 +
địa điểm 地點
+ tính danh
姓名 (biệt
hiệu 別號) +
khiêm từ 謙詞».
1. Thời
gian:
Ghi từ đơn
vị lớn (năm)
xuống dần
đến đơn vị
nhỏ (ngày).
a.
Năm
có thể ghi
dương lịch
hoặc âm
lịch. Thí
dụ: Nhất cửu
cửu bát niên
lục nguyệt
一九九八年六月, Mậu
dần niên lựu
nguyệt 戊寅榴月
hoặc Mậu dần
chi hạ 戊寅之夏.
b.
Tháng ghi
theo âm lịch
có nhiều tên
như:
Giêng |
Chính
nguyệt
正月, mạnh
xuân 孟春,
sơ xuân
初春, khai
tuế 開歲,
phương
tuế 芳歲,
đoan
nguyệt
端月,
chinh
nguyệt
征月. |
Hai |
Trọng
xuân 仲春,
hạnh
nguyệt
杏月, lệ
nguyệt
麗月, hoa
triêu
花朝,
trung
xuân 中春,
hoa
nguyệt
花月, lịnh
nguyệt
令月. |
Ba |
Quý xuân
季春, mộ
xuân 暮春,
đào
nguyệt
桃月, tàm
nguyệt
蠶月, đào
lãng 桃浪,
mạt xuân
末春, vãn
xuân 晚春. |
Tư |
Mạnh hạ
孟夏, hoè
nguyệt
槐月, mạch
nguyệt
麥月, mạch
thu 麥﹑秋,
thanh
hoà
nguyệt
清和約, mai
nguyệt
梅月, chu
minh 朱明 |
Năm |
Trọng hạ
仲夏, lựu
nguyệt
榴月, bồ
nguyệt
蒲月,
trung hạ
中夏,
thiên
trung
天中. |
Sáu |
Quý hạ
季夏, mộ
hạ 暮夏,
hà
nguyệt
荷月, thử
nguyệt
署月, nhục
thử 溽署,
ưu
nguyệt
優月. |
Bảy |
Mạnh thu
孟秋, qua
nguyệt
瓜月,
lương
nguyệt
涼月, lan
nguyệt
蘭月, lan
thu 蘭秋,
thủ thu
首秋, xảo
nguyệt
巧月. |
Tám |
Trọng
thu 仲秋,
trung
thu 中秋,
quế
nguyệt
桂月, sảng
nguyệt
爽月, quế
thu 桂秋. |
Chín |
Quý thu
季秋, mộ
thu 暮秋,
cúc
nguyệt
菊月, vịnh
nguyệt
詠月, cúc
thu 菊秋,
huyền
nguyệt
玄月,
thanh nữ
nguyệt
青女月. |
Mười |
Mạnh
đông 孟冬,
sơ đông
初冬,
lương
nguyệt
良月, khai
đông 開冬,
cát
nguyệt
吉月,
thượng
đông 上冬. |
M. Một |
Trọng
đông 仲冬,
sướng
nguyệt
暢月,
trung
đông 中冬,
tuyết
nguyệt
雪月, hàn
nguyệt
寒月, long
tiềm
nguyệt
龍潛月. |
M. Hai |
Quý đông
季冬, tàn
đông 殘冬,
lạp
nguyệt
腊月, băng
nguyệt
冰月, mộ
đông 暮冬. |
c.
Bốn mùa:
-
Xuân chia
làm: sơ
xuân 初春,
tảo xuân
早春, dương
xuân 陽春,
phương
xuân 芳春,
mộ xuân
暮春.
-
Hạ chia
làm: sơ hạ
初夏, trung
hạ 中夏, hạ
mộ 夏暮, cửu
hạ 九夏,
thịnh hạ
盛夏.
-
Thu chia
làm: sơ
thu 初秋,
kim thu
金秋, tam
thu 三秋, mộ
thu 暮秋,
trung thu
中秋.
-
Đông chia
làm: sơ
đông 初冬,
hàn đông
寒冬, cửu
đông 九冬,
mộ đông
暮冬, trung
đông 中冬.
d.
Mỗi tháng
thượng tuần
上旬 (mồng 1
đến 10) gọi
là thượng
hoán 上浣;
trung tuần
中旬 (11 đến
20) gọi là
trung hoán
中浣; hạ tuần
下旬 (21 đến
30) gọi là
hạ hoán 下浣.
Thí dụ: Mậu
dần niên quế
nguyệt
thượng hoán
戊寅年桂月上浣
(thượng tuần
tháng 8 âm
lịch năm Mậu
dần).
e.
Một số ngày
đặc biệt:
-
Mồng một
tháng
giêng:
Nguyên
nhật 元日,
đoan nhật
端日.
-
Mồng bảy
tháng
giêng:
Nhân nhật
人日.
-
Rằm tháng
giêng:
Thượng
nguyên 上元,
nguyên
tiêu nhật
元霄日.
-
Rằm tháng
bảy: Trung
nguyên 中元.
-
Rằm tháng
mười: Hạ
nguyên 下元.
-
Mồng ba
tháng ba:
Trùng tam
重三.
-
Mồng tám
tháng tư:
Dục phí
浴沸.
-
Mồng năm
tháng năm:
Đoan ngọ
端午, trùng
dương 重陽,
đoan dương
端陽.
-
Mồng bảy
tháng bảy:
Thất tịch
七夕.
-
Rằm tháng
tám: Trung
thu 中秋.
-
Mồng chín
tháng
chín:
Trùng cửu
重九, trùng
dương 重陽.
-
Mồng tám
tháng
chạp: Lạp
bát 腊八.
-
30 tháng
chạp: Trừ
tịch 除夕.
-
Mồng một:
Sóc nhật
朔日.
-
Rằm: Vọng
nhật 望日.
-
30 mỗi
tháng: Hối
nhật 晦日.
2. Địa
điểm:
Không ghi
lời thô. Thí
dụ, ghi «thư
ư Đề Ngạn
Sinh Ký thực
nhục điếm»
書於提岸生記食肉店
(viết tại
quán nhậu
Sinh Ký tại
Chợ Lớn) là
không chấp
nhận được.
Ghi «thư ư
Đề Ngạn Mỹ
Hồng lâu»
書於提岸美紅樓
(viết tại
quán Mỹ Hồng
Chợ Lớn) là
chấp nhận
được. Hoặc
ghi thời
gian và địa
điểm đơn
giản như:
Mậu dần chi
thu ư Bình
Thạnh thư
戊寅之秋於平盛書
(viết tại
Bình Thạnh
mùa thu
năm Mậu
dần).
3. Tác
giả:
Ta ghi tên
hoặc họ hoặc
cả hai, rồi
thêm chữ
thư 書.
Thí dụ: Lê
Anh Minh
黎英明, hoặc
Anh Minh thư
英明書, hoặc Lê
Anh Minh thư
黎英明書.
4. Khiêm
từ:
Nếu ta thư
pháp để đưa
cho bậc
trưởng
thượng hoặc
một chuyên
gia về thư
pháp thì sau
tên của ta,
ta ghi thêm
khiêm từ:
thư phụng
書奉, phụng
thư 奉書, kính
thư 敬書, cung
lục 恭錄, kính
lục 敬錄.
Thí dụ một
hạ khoản đầy
đủ: Mậu dần
niên hạnh
nguyệt hạ
hoán ư Cổ
Phong Đường
Lê Anh Minh
kính thư
戊寅年杏月下浣於古風堂黎英明敬書.
Tóm tắt:
Dưới đây là
đầy đủ các
phần của lạc
khoản, viết
theo cột từ
trên xuống:
1 |
(1,
2, 3)
THƯỢNG
KHOẢN
= (1)
Tính
danh,
(2) Xưng
hô, (3)
Khiêm
từ.
(4)
XUẤT XỨ
= ghi
xuất xứ
phần
chính
văn (nội
dung
chính
của bức
thư
pháp),
tức là
ghi rõ ở
đây
trích
thơ văn
hay câu
cú của
ai. Nếu
chính
văn là
do người
viết thư
pháp tự
sáng tác
thì phần
này
không
cần.
(5,
6, 7, 8)
HẠ KHOẢN
= (5)
Thời
gian,
(6) Địa
điểm,
(7) Tính
danh hay
biệt
hiệu của
người
viết thư
pháp,
(8)
Khiêm
từ.
(9)
ẤN
CHƯƠNG
= Một
hoặc hai
ấn
chương
của
người
viết thư
pháp.
|
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
8 |
9 |
Ấn chương
Ấn chương
đã được giải
thích thành
một bài
riêng. Ở đây
ta nhận xét
cách đặt ấn
chương trên
một bức thư
họa:
Trong
hình bên
cạnh, ấn thứ
nhất (dẫn
thủ chương)
ở vị trí 1.
Ấn thứ hai (yêu
chương)
ở vị trí 2
(ngang eo
bên phải của
bức thư họa;
yêu =
thắt lưng).
Khi nào bức
thư hoạ quá
dài thì mới
đóng thêm
yêu chương
cho đỡ trống
trải. Sát
bên trái là
lạc khoản
(phần
ghi dấu - -
- ), kết
thúc bằng ấn
thứ ba. Ở vị
trí 3, tác
giả có thể
đóng hai ấn.
Đó là ba ấn
chương của
tác giả (thư
pháp gia hay
hoạ gia).
Đối với bức
thư họa kích
thước hơi
nhỏ, một ấn
chương ở vị
trí 3 cũng
đủ. Những
tác phẩm thư
hoạ cổ xưa,
qua tay
nhiều chủ
nhân, mỗi
người chủ có
quyền đóng
thêm một vài
ấn chương
riêng của
mình vào
những chỗ
trống trải
còn lại. Bài
Ấn chương
đã nói các
loại ấn
chương và
công dụng
của chúng.
Trên đây là
những điều
rất cơ bản
về chương
pháp. Như đã
nói trong
bài Ấn
chương, một
tác phẩm thư
hoạ từ hình
thức đến nội
dung và các
chất liệu
cấu tạo phải
là một chỉnh
thể hài hoà.
Một bức thư
họa do đó
được gọi là
«kim thạch
thư họa cộng
nhất thể»
金石書畫共一體
(ấn triện
bằng đá hay
vàng, thư
pháp, hội
họa hợp nhất
thành một
thể). Tuy
nhiên, ấn
chương kim
loại, nét
sắc lẽm trên
bức thư hoạ
chưa phải là
đẹp. Ấn bằng
đá hay ngọc,
lâu ngày bị
sứt mẻ do va
chạm hay rơi
rớt. Khi
đóng lên bức
thư hoạ, nó
chẳng những
tạo nét cổ
kính riêng,
lại còn gợi
ra sự bất
toàn trong
một chỉnh
thể, như Lão
Tử nói: «Đại
thành nhược
khuyết.»
(viên mãn mà
như còn
thiếu). Đó
mới chính là
nét đẹp thâm
trầm đầy
triết lý
Đông phương.●

✔
[mục
lục]
[1]
[2]
[3]
[4]
[5]
[6]
[7]
[8]
[9]
[10]
[11]
[12] |